- Chân dung & Phỏng vấn
- Trần Nhật Thu, biết mấy nghĩa ơn ngày gian khó
Trần Nhật Thu, biết mấy nghĩa ơn ngày gian khó
NGÔ ĐỨC HÀNH
Nhân chuyến công tác tại TP. Hồ Chí Minh, tôi được nhà thơ Trần Mai Hường tặng vài tập sách mà chị là “bà đỡ”, trong đó có Từng biếc xanh đứng hát với mây trời, NXB Hội Nhà văn, quý III/2024 của nhà thơ Trần Nhật Thu. Chị dặn: “Anh về đọc cuốn này đi”. Trần Nhật Thu, người đã rời “cõi tạm” cách đây 16 năm.
Nhà thơ Trần Nhật Thu, sinh năm 1945 tại Đồng Hới, tên thật là Trần Viết Hỷ, tham gia phong trào văn nghệ từ thập niên 1960, khi mới 15 tuổi. Ông từng công tác tại tuần báo Văn nghệ Giải phóng và Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh từ 1975; những năm cuối đời ông công tác tại báo Sức khỏe và Đời sống. Trần Nhật Thu từng xác tín: “Nơi tôi sinh/thị xã nhỏ bên bờ Nhật Lệ/gió rất mặn thổi từ cửa bể/hoa hồng rơi đầy lối đi” (Thị xã).
Tập thơ Từng biếc xanh đứng hát với mây trời được hoàn thành từ di cảo của nhà thơ, trong điều kiện vô cùng nan giải về sưu tầm, thẩm định do các nhà văn Trịnh Bích Ngân (Bích Ngân), Trần Sỹ Tuấn, Trần Mai Hường, Lê Thiếu Nhơn chủ trì. Các anh, các chị đều là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện sinh hoạt tại Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.
Nhà thơ Trần Nhật Thu (1945-2008)
Theo nhà văn Bích Ngân, việc in thơ, tổ chức tọa đàm giới thiệu tác phẩm của những nhà thơ quá cố là hoạt động Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh vẫn thường làm. Riêng với nhà thơ Trần Nhật Thu, do người vợ tào khang cũng đã mất, chưa liên hệ được với con cái nên khởi đầu chị và nhà thơ Trần Sỹ Tuấn đều lúng túng. Chị không yên tâm với những bài thơ của Trần Nhật Thu do nhà thơ Trần Mai Hường sưu tầm trên mạng (dẫu giao diện Thi viện-thivien.net giới thiệu 48 bài thơ của Trần Nhật Thu). Sự thận trọng của nhà văn Bích Ngân là cần thiết, nên chị viết status lên trang cá nhân, tìm kiếm sự trợ giúp.
Thật may, sau vài tiếng lan tỏa, nhóm biên soạn nhận được thông tin từ các nhà thơ Đàm Chu Văn, Trần Hữu Dũng và anh Phan Lai Triều-con trai nhà thơ Chế Lan Viên cho biết họ đang “sở hữu” một số tập thơ do chính nhà thơ Trần Nhật Thu lúc sinh thời ký tặng.
Thở phào nhẹ nhõm, nhóm biên soạn vượt qua khó khăn đầu tiên. Không “có bột”, khó gột “nên hồ”, dẫu tình văn nghệ lớn đến mức nào?!
**
Từng biếc xanh đứng hát với mây trời của Trần Nhật Thu gồm 145 trang; ngoài 49 bài thơ của Trần Nhật Thu, có tựa của nhà văn Bích Ngân và bài viết của “đồng hương Bình Trị Thiên”-nhà thơ Chế Lan Viên, thay cho lời bạt. Bài này nhà thơ gốc Quảng Trị viết vào Tết Ất Sửu năm 1985, trước khi ông mất 4 năm. Thế mới biết, Trần Nhật Thu đã tham gia “đời sống” văn nghệ, quan hệ với nhiều “cây đa, cây đề” trong làng văn từ sớm.
Chủ đề trong Từng biếc xanh đứng hát với mây trời của Trần Nhật Thu khá đa dạng. Cảm thức thi ca trong tập cho thấy bàn chân của Trần Nhật Thu đã rong ruổi ở nhiều cùng đất nước, Bắc Ninh, Quảng Trị, Nha Trang, Đà Lạt, TP. Hồ Chí Minh, Hậu Giang, Cà Mau, Bà Rịa-Vũng Tàu...Tất nhiên, ông dành cho Quảng Bình, nhất là Đồng Hới, nơi nhà thơ sinh ra tình cảm trân quý với cố thổ, nâng niu ký ức.
Em trở về thị xã chẳng còn nguyên
Hoa hồng sen cồn cào trong nỗi nhớ
Anh dẫn em qua từng lối nhỏ
Gạch ngói ngổn ngang bề bộn công trình
(Ca khúc trở lại thị xã hoa hồng sen)
Đây là khổ đầu trong bài thơ dài, gồm 18 khổ, gồm 72 câu của nhà thơ Trần Nhật Thu về TX. Đồng Hới (nay là thành phố). Bài thơ này, ông viết vào ngày đầu tháng 6/1975, khi miền Nam mới được giải phóng, đất nước thống nhất mới được một tháng. Hẳn nhiên, Đồng Hới những năm tuyến lửa là “tọa độ lửa”, gần như bị san phẳng trong chiến tranh. Quảng Bình nói chung và Đồng Hới bắt đầu bắt tay khôi phục, kiến thiết hậu quả.
“... /Viên gạch hồng chuyền tay nhau như mơ/Bao ngôi nhà sẽ lấp dần khoảng trống/Đất nước bộn bề năm chúng mình đang sống/Phía trời Nam thương nhớ đợi chờ”. Bài thơ ngân lên khúc hát yêu đời, tin vào ngày mai; ở đó niềm tin và những cảm xúc lãng mạn: “Sông Nhật Lệ bốn mùa xanh trong/Đón em về giữa ngày vui mới/Tàu cập bến vang tiếng còi bổi hổi/Bến đò chiều ai đó nắm tay nhau” (Ca khúc trở lại thị xã hoa hồng sen). Trần Nhật Thu, thảng thốt cùng quê hương: “Đồng Hới ơi, cháy bỏng giữa tim mình”.
Ngoài bài thơ này, “bức tranh cảm xúc” về Đồng Hới và Quảng Bình còn được Trần Nhật Thu “ký họa” trong các bài thơ Trở về, Bến đò mẹ Suốt, Đồng Hới lại về, Gửi lại Ta Lê...
Đọc thơ Trần Nhật Thu nhận ra tình cảm mênh mang, hoài niệm, thương nhớ, tri ân quê hương và người mẹ đã sinh thành, nuôi dưỡng, bọc đùm tác giả. Trong bóng quê có bóng mẹ và ngược lại. Hay nói cách khác hình ảnh làng quê, người mẹ tảo tần cùng hiển thị, lồng vào nhau. Đó là vùng ký ức nao lòng: “Tuổi thơ/cánh buồm chở đầy khát vọng/Lồng ngực nhỏ lần đầu xô sóng...”; “Mẹ tôi/mang mặt trời về khi tan chợ/những vỏ ốc, vỏ sò kỳ ảo thế/mẹ nuôi mặt trời/cháy suốt đời con” (Thị xã).
Chắc chẳng nơi nào đẹp bằng quê hương; “Thành phố nhiều gió quá/Màu xanh lên ngợp trời/Hỡi dòng sông Nhật Lệ/Buồm ai vừa ra khơi” (Đồng Hới lại về). Không ai “bứng” ông ra được khỏi cố thổ. Ở đó còn có những rung động đầu đời của mỗi người khi lớn lên không gì thay thế được: “Nơi đây anh đã có/Một tuổi thơ êm đềm/Anh xây thành phố cát/Nơi ấy mặt trời lên” (Đồng Hới lại về).
Bìa tác phẩm “Từng biếc xanh đứng hát với mây trời”.
**
Trần Nhật Thu là nhà báo, nhà thơ đa tài. Tác phẩm của ông để lại ngoài thơ còn có truyện ngắn, chân dung văn học và khảo luận. Từ năm 1971 ông đã có thơ in chung với Cảnh Trà và Quang Huy; sau đó là các tập: Mùa bão và hoa muống biển (NXB Văn học, 1977), Gặp gỡ mùa gió chướng (NXB Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 1986), Hoa hồng gió mặn (NXB Thuận Hóa, 1986).
Về văn, đáng kể nhất của Trần Nhật Thu là tập truyện ngắn Con mắt của cánh buồm, NXB TP. Hồ Chí Minh in lần đầu năm 1986 và được tái bản nhiều lần; năm 1997 NXB Kim Đồng tái bản vào Tủ sách vàng... Về khảo luận, đáng kể nhất là tác phẩm Tục lệ cưới gả, tang ma người Việt xưa, NXB Thuận Hóa năm 1991; sau đó được tái bản nhiều lần.
“Hơn 15 năm, thời gian đủ dài để có thể xóa nhòa và lãng quên nhiều thứ. Nhưng với thơ ca, đó là khoảng lùi cần thiết để người viết, người đọc có thể nhận rõ hơn những gì mà chữ nghĩa đem lại. Dù gia tài thi ca của Trần Nhật Thu không đồ sộ, thậm chí là khiêm nhường... nhưng chất lắng, chất đọng của vàng ròng từ câu chữ, từ tấm lòng nhà thơ vẫn lung linh thứ ánh sáng của riêng nó, bất chấp mưa nắng cuộc đời và lớp bụi thời gian”, nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh viết trong tựa tập thơ.
Nhận xét của chị, không chỉ là sự đánh giá mà còn có ý nghĩa phổ quát. Thơ là văn bản của nhà thơ. Nói như nhà thơ Nguyễn Bình Phương, “khi nhà văn nằm xuống, đồi núi của anh ta mới trồi lên”.
Nhà thơ, tiến sĩ Trần Sỹ Tuấn nguyên là Tổng Biên tập báo Sức khỏe và Đời sống, cho đến bây giờ vẫn nhắc đến Trần Nhật Thu, một đồng nghiệp, một thuộc cấp với biết bao thương nhớ: “Mây trắng như vành khăn trắng/Thắt vào bao nỗi nhớ thương/Đất trời mùa này mưa bão/Lo anh sương gió dặm trường”.
Phải là người tử tế, dẫu đã về miền mây trắng mới được anh em, đồng nghiệp nhớ thương như vậy. Sinh thời nhà thơ Chế Lan Viên nhận xét: “Ở Trần Nhật Thu có sự dịu êm và hiền hòa”. Điều này xác tín, không chỉ giọng điệu, phong cách thơ Trần Nhật Thu, mà còn cả quán chiếu từ đời sống nhà văn.
Nguồn: Quảng Bình điện tử