TIN TỨC

“Con sống rồi mẹ ơi!”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-07 07:04:11
mail facebook google pos stwis
3423 lượt xem

SĨ BÌNH

Xin nói ngay rằng, đây là tên bài thơ của “nhà thơ của lính” Trần Ngọc Phượng – người đã nói hộ tình cảm, khát vọng cháy bỏng của những người cầm súng vào buổi trưa 30-4-1975 Lịch sử.

Đối với thế hệ những người lính “Quân Giải phóng” – trước năm 1975 thì nhiệm vụ: Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là mệnh lệnh thiêng liêng nhất, là niềm mong ước cháy bỏng của cả dân tộc Việt Nam!

Chiến tranh là điều không ai mong muốn! Nhưng như Nhạc sĩ Diệp Minh Tuyền đã viết: “Kẻ thù buộc ta ôm cây súng…”!

Mệnh lệnh thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người Cha kính yêu của lực lượng vũ trang nhân dân: “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải giành cho được độc lập, tự do cho dân tộc”! Như lời Hịch non sông – như chân lý sáng ngời, đã thôi thúc bao thế hệ trai tráng ngày ấy xung phong tình nguyện ra chiến trường giết giặc. Trên mặt trận đó, đã có bao lớp người dũng cảm hy sinh máu xương của mình. Cũng theo đó có bao cảnh mẹ già mất con; con mất cha, vợ mất chồng…thương đau.

Thương biết bao nhiêu những người Mẹ nơi hậu phương, từng ngày, từng giờ chờ mong tin con; Mẹ luôn cầu nguyện cho đất nước sớm bình yên để con của Mẹ sớm trở về. Những người vợ vò võ từng đêm, đau đáu mỗi ngày, mong ngóng một ngày kia chồng sẽ trở về trong niềm vui vỡ òa – Hạnh phúc…

Còn, với người lính đang trong cuộc chiến, trực tiếp cầm súng, trải nghiệm với đói rét, gian khổ, đổ máu, hy sinh, đối mặt với sự sống và cái chết; thì sự mong mỏi chiến tranh sớm kết thúc, hòa bình sớm lập lại càng nhiều gấp bội phần! Cũng là con người, hiểu đạo lý, biết yêu thương… mong một cuộc sống bình yên bên gia đình thương yêu…Nhưng người lính phải gác lại tất cả ước mơ… để xung phong ra chiến trường theo mệnh lệnh thiêng liêng của Tổ quốc: Giải phóng dân tộc! Hòa bình cho nhân dân!  Những tình cảm thương yêu buộc họ phải dồn nén lại…Ở chiến trường bên cạnh họ chỉ có tình đồng đội – thương yêu như ruột thịt!

Những mong mỏi, từ nỗ lực quyết chiến đấu bền bỉ, gan dạ, dũng cảm hy sinh… Trưa 30-4 1975 Lịch sử đã điểm: “Chiến dịch Xuân 75 toàn thắng” đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước! Những người lính tràn qua cánh cổng Dinh Độc lập; cũng như những người lính ở 5 cánh quân khác nhau đang tiến vào Sài Gòn ngày hôm ấy đã vỡ òa trong hạnh phúc tột cùng! Những tình cảm lâu nay như chiếc lò xo bung ra, bật dậy, bay lên rất nhanh, rất nhanh: Giải phóng rồi! Hòa bình rồi! Con sống rồi Mẹ ơi! Chúng ta sống rồi – những người lính ôm nhau trong nước mắt sung sướng! Anh hét vang trước Dinh Độc lập; Khi kết thúc chiến tranh; Biết bao người như anh: “Con sống rồi Mẹ ơi!” Là người lính cầm súng và cũng là người cầm bút - “Nhà thơ của lính”- tác giả Trần Ngọc Phượng đã xúc động, cảm nhận sâu sắc tình cảm, tâm trạng của người lính khi chứng kiến những giây phút Lịch sử huy hoàng nhất, vĩ đại nhất của dân tộc! Để rồi cùng thốt lên – hét lên với niềm sung sướng vô bờ với bài thơ: “Con sống rồi mẹ ơi”!

CON SỐNG RỒI MẸ ƠI! Chỉ một câu ngắn gọn nhưng đã nói lên tất cả! Nó đã giải phóng bao tình cảm lâu nay dồn nén, nó là ước nguyện, là mong mỏi; nó cũng là sự khẳng định đanh thép; là tuyên ngôn của người lính Cụ Hồ: YÊU HÒA BÌNH VÀ CĂM GHÉT CHIẾN TRANH! Ngày 30/4 đi vào lịch sử mãi mãi là ngày chiến thắng của toàn dân, ngày thống nhất non sông, hòa hơp dân tộc cùng nhau chung tay xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt nam tươi đẹp.   

Con sống rồi mẹ ơi!


Con sống rồi Mẹ ơi!
Anh hét vang trước dinh Độc Lập
Khi kết thúc chiến tranh
Biết bao người như anh
Đã reo lên khắp mọi miền đất nước
Trên đường tiến quân,
Đạn bom phía trước
Từ bên chiến hào,
Vừa vuốt mắt bạn thân
Hay trong rừng sâu,
Nơi chôn vùi tuổi xuân con gái
Con sống rồi
Tưởng không ngày trở lại
Tưởng như thật như mơ
Đất nước reo vui đỏ rợp sắc cờ
Tiếng reo đầu tiên
Con xin dâng cho Mẹ

Và có lẽ phía bên kia cũng thế
Người lính hàng binh.
Vất quân trang vũ khí xuống đường
Cũng chắp tay gọi Mẹ
Mẹ ơi! Mẹ ơi!
Tiếng reo vang vọng bốn phương trời
Mẹ Việt Nam rưng rưng nước mắt
Ngày con về, xóm làng xơ xác
Mẹ ôm chặt vào lòng
Như sợ con tuột mất
Con gục đầu vào Mẹ
Mà không dám reo vang
Bao Bà Mẹ mất con
Bao người vợ mất chồng

Nước mắt nhòa bảng Tổ quốc ghi công
Khói nhang bay trên nấm mồ Liệt sĩ
Ai biết hòa bình
Bao máu xương phải trả?
Con của Mẹ sống rồi
Trong đất nước trường sinh.

TRẦN NGỌC PHƯỢNG

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm