TIN TỨC

Trăng Lạnh” và một trái tim ấm áp

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-11-21 10:26:16
mail facebook google pos stwis
939 lượt xem

 

HOÀI HƯƠNG

“Trăng lạnh”, tập thơ mới nhất của nhà thơ Trần Thế Tuyển đến với tôi như một một món quà tặng của người anh “đồng đội”, như một sự chia sẻ cảm xúc của  người yêu văn thơ, để cùng ngân nga lọc tìm những câu thơ đẹp, để có những khoảnh khắc lắng đọng chiêm nghiệm nhân gian thế sự, để càng trân quý hơn cuộc sống, tình yêu và sự thanh bình…

 Nếu dùng hai từ để nói về Đại tá - Nhà thơ- Nhà báo Trần Thế Tuyển, tôi dùng hai từ “Ấm áp”. Và khi đọc“Trăng lạnh”, tập thơ thứ 14 hay 15 (tôi không nhớ hết) tôi vẫn cảm nhận được sự ấm áp ấy. Vâng! Không phải hiện tại nhà thơ Trần Thế Tuyển “ấm áp”, mà có lẽ từ hơn 40 năm trước, lần gặp đầu tiên, khi tôi là một tân binh của Cục Chính trị Quân khu 7, tôi được đọc những bài thơ của anh trên báo Quân khu 7, đã thích những câu thơ đầy chất lính mà cũng đầy tình cảm về quê hương và đồng đội. cho đến tận hiện tại, tôi vẫn đọc thơ anh từ báo Quân đội nhân dân, tạp chí Văn nghệ Quân đội, và ở các tờ báo khác như Nhân dân, Sài Gòn Giải phóng, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Tiền Phong… như một cách dõi theo hành trình thơ của anh. Thơ anh như những trang nhật ký của người lính hôm qua - hôm nay và tương lai, những trang thơ chân tình, bình dị, hồn hậu, ngôn từ chân phương, không màu mè kỹ thuật, mà ý thơ sâu sắc, nhiều cung bậc cảm xúc, để cảm nhận một “người thơ” chân tình, khiêm nhường, tràn đầy nhân nghĩa, luôn đau đáu tình thương yêu thấm đẫm với đồng đội, với quê hương, với đất nước…

Hơn 60 bài thơ được chia thành ba chương: Trăng lạnh, Có một vầng trăng và Kỷ vật, là hơn 60 cung bậc cảm xúc bằng thơ từ trái tim nhà thơ Trần Thế Tuyển, là những ánh trăng không hề “lạnh”, mà lấp lánh trong đó là sự ấm áp của trái tim sâu nặng tình người “Người ta trong cõi người ta/ Hơn nhau nhịp đập, mặn mà nông sâu- Trái tim.

Ngay từ ban đầu, tôi đã hơi có chút thắc mắc tại sao lại là “Trăng lạnh”, làm tên tập thơ, là phần mở đầu tập thơ, và có gì “lạnh” không? Nhưng khi đọc bài thơ “Trăng lạnh” thì tôi đã hiểu, từ “lạnh” ở đây của nhà thơ Trần Thế Tuyển, là cái “lạnh” của nỗi nhớ quê đến thao thiết tâm can, đến the thắt từng nhịp đập trái tim, thân nhìn vầng trăng xứ biển Nha Trang, mà thần lạc về tới trăng quê nhà Nam, và lúc đó, thì trăng không còn “lạnh”, mà như đang có quê hương theo ánh trăng đến bên mình, ánh trăng bỗng thành một tình yêu ấm áp: Trăng nhớ ai mà ánh mắt thẫn thờ/ Nhớ cánh đồng ngô non bát ngát/ Nhớ câu ca em nghêu ngao thường hát/ Em có về Nam Định với anh không?/ Trăng nhớ ai vừa lạ vừa quen/ Biển vẫn hát tình ca muôn thuở…”.

Làm sao có thể “lạnh” khi đọc các bài thơ: Thời ta còn trẻ, Có một thời ta trẻ, Xin cho tôi ngọn lửa, Khai bút Giáp Thìn… vẫn hừng hực thanh xuân như cách Trần Thế Tuyển thời “Ngực đá”- 1997. Làm sao có thể “lạnh” khi trái tim vẫn luôn đập những nhịp trăn trở, day dứt thế sự cuộc đời, không bàng quan, không thờ ơ, mà đầy lương tâm trách nhiệm với những hiện thực cuộc sống: Có những lúc, Những đứa trẻ, Thiên thư, Ngẫm bình minh, Thương phận, Đời người, Ta còn một chút, Bức tranh cuộc đời, Tạm biệt, Sự đời…

Nhà thơ Trần Thế Tuyển (trái) tặng thơ cho bạn đọc

Và không thể “lạnh” khi những câu thơ đầy chất thơ miêu tả quê hương, là miền quê lúc giao mùa, vào mùa, chín trong mùa đẹp như những bức tranh…, là hoài niệm trường lớp ngày xưa, là ký ức quá khứ chồng chồng lớp lớp được hồi sinh, được khơi dậy  trong “Có một vầng trăng”. “Có một giấc mơ rất lạ/ Mắt em biếc xanh mộc lá/ Gió vờn lả lướt hương xưa/ Có một mùa trăng đò đưa…/ Có một vầng trăng lấp ló/ Người xưa để lại trăng non/ Mãi mãi ngàn năm, còn đó/ Hư vô, ẩn hiện vết son…”- Có một vầng trăng.

Là ký ức về quê hương tuổi thơ, là những ngày đi học, là những mơ mộng tuổi thanh xuân, là những giai điệu mênh mang miền sông nước trải lòng thao thiết…

Ta trở về mái nhà xưa/ Nơi dấu chân in thời thơ ấu/ Nửa thế kỷ giữa cõi đời yêu dấu/ Cứ nghĩ mình trong mơ…”- Trở về mái nhà xưa. “Nhớ trường, nhớ lớp bao nhiêu/ Nhớ thầy cô với bao điều dạy răn./ Nhớ cây bàng đứng giữa sân/ Bao nhiêu tuổi lá vẫn xanh, vẫn vàng?”- Vẫn mãi học trò. “Tiếng sấm đêm Hà Nội/ Đánh thức tuổi thơ tôi/ Năm mươi năm vời vợi/ Sấm vẫn đầy vẫn vơi…”- Tiếng sấm đêm Hà Nội. “Đêm phương Nam trái phải/ Nghe Dạ cổ hoài lang…/ Thương cánh đồng bát ngát/ Lộng gió chiều dân ca/ Cánh buồm thì xa lắc/ Chỉ còn ta với ta”- Kiên Giang nghe Dạ cổ hoài lang…

Mẹ trong thơ của nhà thơ Trần Thế Tuyển là một chủ đề lớn, và gần như trong tác phẩm thơ nào của anh cũng đều có những bài thơ về mẹ, từ nỗi nhớ thương cho đến sự biết ơn sinh thành, đến cao hơn khi tình yêu thương mẹ là tình yêu Tổ quốc thiêng liêng.Trong tập thơ này, mẹ là hạnh phúc, mẹ là nơi để trở về. Không có Mẹ/ Làm sao con biết bầu trời/ Trong xanh thế mà mây đen vần vũ/ Không có Mẹ/ Sao chúng con có thể thành Người/ Sống hết mình cho tương lai, quá khứ”- Ngày của mẹ. “Hạnh phúc nhất trên đời còn mẹ/ Dẫu mái đầu mây trắng buông trôi/ Con bỗng thấy cánh cò chở nắng/ Và nụ cười em bé trong nôi”- Hạnh phúc nhất trên đời còn mẹ.

Đặc biệt trong phần này, có nhiều bài thơ tua lại những thước phim kỷ niệm một thời chiến tranh, là một quãng đời nhà thơ Trần Thế Tuyển - một người lính Quân đội nhân dân, đã trải nghiệm sinh tử, và đau đáu những câu thơ nhớ nghĩ về đồng đội - những người đã hy sinh, như một nhắc nhở “không ai, không việc gì bị quên lãng”, để sống nghĩa tình, trả nợ những ân tình…

Đạp ngược gió tìm về quá khứ/ Ta run run hỏi chuyện cây bàng/ Chiến tranh đi qua ít lành, nhiều dữ/ Bạn ta nằm đâu, nơi tiếng súng ầm vang”- Đạp ngược gió tìm về quá khứ. “Đêm Kiên Giang/ Ngọn gió thúc thôi/ Bao tráng sĩ bước lên từ biển/ Câu thơ xưa đã thành kinh điển:“Hồn bay lên hoá Linh khí Quốc gia”- Đêm Kiên Giang(2).

“Kỷ vật”, không phải là “vật thể” mà là tình yêu thương thiêng liêng hóa thành những câu thơ, bài thơ đọc mà rưng rưng, là những hồi ức chiến tranh, là tình đồng đội sinh tử, và người hôm nay sống cả phần đời bao người đã hy sinh… “Ký ức xưa và bây giờ/ Kỷ vật “phi vật thể”/ Theo tôi đi suốt cuộc đời dâu bể/ Không quên!.”

Câu thơ đã thành câu đối đang được lan tỏa ở nhiều đền đài liệt sĩ trong cả nước: Thân ngã xuống thành đất đai Tổ quốc /Hồn bay lên hóa linh khí Quốc gia”- Các anh không trở về ở lại giữa rừng sâu/ Thân ngã xuống thành đất đai Tổ quốc/ Các anh không về quên mình vì đất nước/ Hồn bay lên hoá Linh khí Quốc gia”- Mây trắng xa xăm. “Mọi người đang được hưởng/ Cuộc sống này ấm êm/ Bao nhiêu người ngã xuống/ Nơi chiến trường đạn bom.”- Em hóa thành nước non. “Đồng đội ơi, yên lòng nhé/ Dẫu năm dài tháng rộng qua đi/ Chúng tôi vẫn khắc ghi ngày ấy/ Nơi cuối rừng bom rơi lửa cháy… Đồng đội ơi!/Hãy yên nghỉ ngàn thu/ Chúng tôi sống thêm phần đời của bạn…”- Đồng đội ơi.

“Kỷ vật” là “Tiếng mẹ tiếng sóng”- Tổ quốc lâm nguy chúng con chia tay mẹ/ Tráng sĩ lên đường theo gót cha ông/ Gửi lại lời ru, luống cày, ruộng mạ/ Dâng đời trai cho Tổ quốc, non sông. Tạm biệt mẹ, lời ru dịu ngọt…/ Chúng con đi theo tiếng sóng ầm vang/ Biển Tổ quốc phải ngàn năm nguyên vẹn/ Dù máu chúng con thắm đỏ giang san”…

“Kỷ vật” là “Tháng Tư Tây Nguyên”:… Âm vang, vời vợi/ Bao chiến sĩ quên mình/ Chưa có tên/ Bia ghi danh các anh/ Tháng Tư Tây Nguyên ấm áp”. Là “Bóng mát Cơ nia”: “Về, thưa với mẹ chuyện “động trời”/ Mẹ bình tĩnh nhai trầu, khẽ bảo:/ Không sao đâu, thân thể em con đã lẫn vào cây cỏ/ Đã thành đất đai của Tổ quốc thiêng liêng…”.

Khép lại tập thơ, một chút lắng, để nén cảm xúc rưng rưng. “Trăng lạnh” của nhà thơ Trần Thế Tuyển, rất ấm áp. Những câu thơ, bài thơ, cho dù là nỗi nhớ, cho dù là nỗi buồn, cho dù là những thao thức thế sự nhân sinh…, vẫn thầm lan tỏa tình yêu, từ quê  hương nơi chôn nhau cắt rốn đến đồng đội sinh tử trong chiến tranh, từ người mẹ tảo tần mưa nắng đến Việt Nam Tổ quốc tiêng liêng.   

Nhà thơ Trần Thế Tuyển nguyên là chiến sĩ Trung đoàn 174 Cao Bắc Lạng Anh hùng, từng trực diện chiến đấu từ Tây Nguyên, đến miền Đông- miền Tây Nam bộ và tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, rồi sau lại tham gia cuộc chiến bảo vệ biên giới Tây Nam và nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia. Từ một lính chiến, đến một nhà báo chuyên viết bút ký, phóng sự, đến một nhà thơ, nên thơ của anh có sự chân thật sinh động, không hoa mỹ hay tạo những trúc trắc phức tạp trong câu từ, trong cấu trúc. Có lẽ thế mà thơ của anh dễ thấm, dễ cảm, dễ lan tỏa.

Tôi muốn kết bài viết này bằng chính bài thơ “Ấm áp ngàn năm”: “Năm mươi năm đồng đội đã về chưa/ Cầu Sài Gòn, nơi bạn bè nằm xuống/ Thành phố bên sông không còn tiếng súng/ Chỉ rì rầm, nhịp sống trước bình minh…”, trong tập thơ “Trăng lạnh” của nhà thơ Trần Thế Tuyển.

TP Hồ Chí Minh ngày 2/9/2024

H.H

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm