TIN TỨC

Tượng đài một anh hùng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-10-18 02:43:09
mail facebook google pos stwis
322 lượt xem

Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.

Khái niệm biểu tượng có hai lớp nghĩa: Một, là những ký hiệu có trong lịch sử, theo thời gian được bồi đắp nhiều lớp phù sa văn hóa, lắng đọng, kết thành hình tượng bao chứa lượng tri thức văn hóa sâu rộng, có tính cộng đồng cao, trở thành "căn cước văn hóa" mỗi dân tộc. Hai, tập trung khái quát cao độ những ý nghĩa lịch sử - xã hội, nên nhìn vào biểu tượng sẽ thấy nội dung bản chất thời đại. Soi cách hiểu này vào trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) cho thấy, tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ, một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ. Ngay tên gọi cũng mang ý nghĩa biểu tượng: "đất lửa Tây Ninh" - vùng đất ác liệt nhất, nơi đụng đầu lịch sử quân ta và quân Mỹ. "Lửa" luôn đa nghĩa. Hai chữ "đất lửa" đã nói một cách khái quát cao nhất về độ nóng bỏng, sự hủy diệt của đạn bom; sự kiên cường, dũng cảm của các chiến sĩ Quân Giải phóng. "Tiếng chim rừng" gợi về cuộc sống bình yên, về hòa bình. Một tên gọi tạo ấn tượng, vừa khái quát cao độ nội dung, thế giới hình ảnh, vừa nói lên phong cách tác phẩm: sự tương phản triệt để giữa lòng yêu nước, tinh thần quyết tâm đuổi giặc sẽ vượt qua mọi tình huống ác liệt nhất. Để rồi bật ra một ý chung nhất: Tình yêu sự sống nở hoa trên lửa đỏ chiến tranh. Ý này lại có mạch nguồn từ "cổ mẫu" có trong văn hóa phương Đông: được tái sinh từ lửa, chim phượng hoàng (một vật tổ) càng mạnh mẽ, tươi sáng, rực rỡ hơn, để rồi càng bay cao bay xa trong bầu trời tự do, mơ ước. Cũng là một ẩn dụ kín đáo, tinh tế về hình tượng được ngợi ca.

 

Trường ca "Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh" của nhà văn Châu La Việt.

 

Một yêu cầu cơ bản của nghệ thuật điêu khắc tượng đài là tìm ra một không gian tương xứng, không chỉ để làm nổi lên hình tượng, còn khơi gợi ra sự liên tưởng thẩm mỹ ở người thưởng thức. Tượng đài Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Tô Quyền (biệt danh hoạt động ở chiến trường là "Tư Tô Lâm" - ông yêu các con và lấy tên con đầu lòng làm biệt danh của mình) được "nhà điêu khắc" Châu La Việt đặt vào hai mảng không gian hôm qua - lịch sử dựng nước, giữ nước và hôm nay - tiếp bước, kế thừa truyền thống. Người anh hùng ấy ra đi từ làng Xuân Cầu xinh đẹp và văn hiến, không chỉ phù hợp với logic thực tế, mà cả với logic nghệ thuật. Một không gian vùng đất thiêng giàu có bản sắc được "điêu khắc" bằng ngôn ngữ của thơ: Thả gàu múc giếng khơi trong mát/ Uống ngụm nước thấm sâu tâm hồn/ Đi khắp bốn phương uống trăm ngọn nước/ Không nơi nào bằng nước giếng quê hương; Trao cho cháu bó hoa và ông căn dặn/ Hãy xứng đáng với truyền thống quê hương/ Dù nơi đâu cũng đừng quên cháu nhé/ Mình là con em của Xuân Cầu yêu thương.

Theo quy luật hồi ức, quay trở về ngày hôm qua với không gian hậu phương: Như bao vợ của những người ra trận/ Một tay bà chăm sóc đàn con/ Đứa lớn đứa bé con trai con gái/ Tuổi ăn tuổi ngủ tuổi cắp sách đến trường; Thằng anh lớn lên, nhường tấm áo cho em/ Con chị học xong, sách cho em học tiếp... Người chồng lại hoạt động bí mật nên Bà thầm lặng không một lời than thở. Đó cũng là một hy sinh lớn lao của người vợ nơi hậu phương - bà Đặng Thị Cam, vợ ông Tô Quyền. Như cái bản lề khép mở thế giới hôm qua và hiện tại hôm nay, nhân vật Tô Quyền (Tư Tô Lâm) được kiến tạo theo nguyên tắc trữ tình hóa. Là những liên tưởng, tưởng tượng của người chồng về ngôi nhà, vợ con: Ôi nếp nhà giản dị chốn làng quê/ Đêm trăng thanh kê chõng tre hóng mát/ Người mẹ nhìn lũ con múa hát/ Nuốt nước mắt vào lòng nhớ chồng ở nơi xa. Với người lính nơi sống chết, có gì thiêng liêng hơn căn nhà của mình đâu; có gì yêu thương hơn vợ con mình đâu. Ngày xưa giọt mắt người "chinh phụ" đã đẫm bao trang sách. Ở đây, giọt nước mắt ấy được người chồng "nuốt vào lòng". Vơi đi chất bi kịch để đậm đà hơn chất lý tưởng, chất anh hùng. Bởi những hy sinh ấy vì Tổ quốc độc lập, vì đất nước tự do.

Không gian làng quê khép lại, không gian chiến tranh mở ra, được đặc tả cận cảnh, rắn rỏi, gân guốc, mạnh mẽ. Là lúc "chém vè tránh giặc". Là cảnh Đội hầm lên nổ súng tiến công. Trong hoàn cảnh hết sức khó khăn: "chỉ củ khoai, củ sắn". Nhưng nhờ sống "bình dị giữa lòng dân", chiến đấu vì dân, bảo vệ dân, được dân che chở: Các má gọi ông "thằng Tư Tô Lâm"... Người anh hùng hiện lên với tất cả những phẩm chất tuyệt vời nhất về ý chí vượt qua thời điểm khó khăn nhất: Gian xơn xi ty 53 ngày đêm/ Súng hết đạn, người cầm hơi chút cháo/ Chất độc hóa học, máy bay và phi pháo; Không ai tin được một ngày mười trận bom/ B.52, bom phát quang, chất độc/ Rừng cây xanh úa vàng tận gốc... Nghệ thuật tương phản, đối lập được khai thác triệt để: người lính an ninh anh hùng, quả cảm trong hoàn cảnh khó khăn nhất (súng hết đạn, cầm hơi chút cháo) "vẫn kiên gan quyết đánh trả đến cùng" kẻ thù dã man, hung bạo nhất (một ngày mười trận bom, chất độc hóa học, máy bay, phi pháo)...

 

Đồng chí Tô Quyền (thứ hai từ trái qua) và đồng đội thăm lại chiến trường Tây Ninh - Ảnh: Tư liệu

 

Một nguyên tắc kiến tạo tượng đài, theo mỹ học tạo hình hiện đại phải vừa là nơi gặp gỡ, tương tác giữa ánh hồi quang từ quá khứ và những ánh xạ của cuộc sống đương đại, để tạo nên dải quang phổ lung linh hấp dẫn có độ tán sắc ánh sáng văn hóa rộng. Nếu lịch sử mang "hồn núi sông" là ánh hồi quang quá khứ, thì những nhân vật trong trường ca như Anh hùng Tô Quyền hay chiến sĩ - nghệ sĩ Tô Lan Phương là sự ánh xạ của hôm nay, tràn trề sức trẻ và tình yêu: Tuổi hai mươi như tia nắng mặt trời/ Những gương mặt sáng ngời lý tưởng/ Chọn sân khấu nơi miền Nam lửa đạn/ Người chiến sĩ và khúc hát trên môi. Như bao thanh niên khác, theo lời Tổ quốc gọi, đã lên đường vào Nam chiến đấu giữ nước. Nơi đến là vùng "đất lửa Tây Ninh" nóng bỏng, ác liệt, nơi có những người cha, người chú của mình như Tô Quyền đang chiến đấu, nên người nghệ sĩ ấy cũng đồng thời phải là người lính trực tiếp cầm súng. Truyền thống cách mạng quê hương là điểm tựa vững vàng: Em đã mang cây đào thắm đỏ ấy/ Những tháng ngày vượt nắng lửa Trường Sơn/ Em đã mang cây đào như lửa cháy/ Trong tim mình những năm tháng chiến trường... "Cây đào như lửa cháy" là một biểu trưng ý nghĩa về sự kế thừa, tiếp nối giữa hai thế hệ chống Pháp và chống Mỹ. Còn là biểu tượng tỏa ánh sáng công lý, chân lý và cả đạo lý, kết thành niềm tin thời đại: Chính nghĩa yêu nước sẽ chiến thắng phi nghĩa xâm lược!

Cùng điểm xuất phát làng quê Xuân Cầu văn hiến, yêu nước; điểm gặp gỡ là chiến trường, hai hình tượng nhân vật cùng tương hỗ, khúc xạ vào nhau, cho nhau để tôn lên, làm rực rỡ thêm biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng: Cũng những ngày ấy có một người Xuân Cầu/ Ông đã tới với chiến trường rất sớm/ Nơi ông đến đất Tây Ninh nóng bỏng/ Ông sẽ yêu như chính quê hương mình... Hai không gian nghệ thuật trữ tình (vùng quê Xuân Cầu và vùng đất Tây Ninh) đồng hiện theo sự quy chiếu của hai cái tôi tâm trạng để cùng tỏa ra thứ ánh sáng nhân văn về tình yêu cội nguồn, tình đồng hương, cao hơn cả tình yêu nước, tình đồng chí. Tình quê Nam bộ nở hoa giữa tình yêu đất nước.

Hai người lính, hai thế hệ ngẫu nhiên gặp nhau trong không gian thật đặc biệt: Chú với cháu cùng quê hương Xuân Cầu/ Vườn nhà cháu ngày xưa chú thường sang hái quả/ Chú cũng họ Tô, là đội trưởng thiếu nhi từ nhỏ/ Đi trải truyền đơn, đi canh gác cho ông cháu họp hành. Ngoài tình đồng chí, đồng hương, còn là nghĩa tình chú cháu chung không gian hoài niệm ngày xưa... Giữa họ, tình anh em chú cháu họ hàng, tình đồng hương hòa vào tình yêu nước để tạo nên sức mạnh của lòng quả cảm đuổi giặc thù.

Hài hòa với cảnh quan chung, tượng đài còn phải hài hòa với lòng người. Tất cả cùng nâng đỡ nhau vì cái đẹp chung của nghệ thuật hướng về cuộc sống. Trở về Tây Ninh, giữa sắc xanh của trời, của cây, của niềm tự hào yêu thương, nhà thơ "điêu khắc" những tượng đài người anh hùng trong tâm tưởng của riêng mình, cũng là của chung độc giả:

Khắc ghi để sáng mãi chân lý lịch sử, để trao truyền đạo lý "uống nước nhớ nguồn". Đó cũng là nguyên lý của đổi mới, phát triển: kế thừa, phát huy, nâng cao các giá trị văn hóa dân tộc.

PGS.TS Nguyễn Thanh Tú

Nguồn: Báo Văn Nghệ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm