TIN TỨC

Ám ảnh “Phút 89” của Minh Đan

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2021-11-04 10:57:32
mail facebook google pos stwis
2874 lượt xem

NGUYỄN TRỌNG TẠO

Phút 89 là phút áp chót trong trận bóng đá, đó là cái phút đầy kịch tính, có thể chuyển bại thành thắng, chuyển khóc thành cười, có thể làm thay đổi cả số phận của đội bóng lẫn người ghi bàn và người giữ gôn. Có lẽ với cái ý nghĩa đó, Minh Đan trong tập thơ này, muốn chia sẻ với bạn đọc sự lựa chọn khắc nghiệt của mình trước sự dồn đẩy của cảm xúc và lý trí.

Một sự lựa chọn đầy quyết liệt và nữ tính:

đã quên

quên tụt huyết say

đã say

say tụt những cay đắng vờ

đã ngoan

ngoan tưởng như mơ

đã mơ

mơ chín từng giờ ái ân.

(Phơi)

Lâu nay người ta vẫn cho rằng, phái đẹp là “phái yếu”. Đấy là người ta đề cao tính uyển chuyển, dịu dàng, thầm kín... của người phụ nữ. Người ta quên mất là phụ nữ đã có thời “mẫu hệ” hoàng kim trong lịch sử, và cũng không thiếu những “nữ tướng”, “nữ vương” làm rạng danh sông núi. Nhưng ở đây là sự quyết liệt của Nàng Thơ, mà không chỉ thơ tình, còn đầy ắp cả những mảng đời thế sự với một cá tính sáng tạo riêng.

Nói đến cá tính sáng tạo là nói đến cái tôi, cái bản ngã của nhà thơ. Viên Mai cho rằng “làm thơ không thể không có cái tôi” (tác thi bất khả dĩ vô ngã), “phàm là kẻ làm thơ, ai có thân phận nấy, nên mỗi người có nỗi lòng, suy nghĩ riêng” (phàm tác thi giả các hữu thân phận, diệc các hữu tâm não). Đó là một trong ba phương diện làm nên thuyết “Tính linh” (Tình-Tính-Tài) của chủ thể sáng tạo thơ ca.

Đọc Minh Đan, ta thấy một người tình ngộ nghĩnh:

Lưng em ngắn, anh bảo: siêng năng làm bếp

chân em thấp, anh nhủ: xinh như trái bắp

tay em tròn, anh hồn nhiên: cà pháo dậy thì

(Không thể đặt vòng)

Người nữ trong thơ chị luôn có một tình yêu bỏng cháy:

Nắng cong môi: ai đốt cháy cánh rừng già hơn ta?

những mầm xanh chẳng thể nào thiếu sáng

em nói: tình yêu của anh

thiêu nóng cánh rừng đàn bà mới lớn

(Quyền lực trái tim)

Hoặc:

Em mất hết kiêu hãnh dại khờ

ngã trong anh già nua thời tiết

những cơn lốc hóa tình yêu bất diệt

cuốn chúng mình vào không trung

(Bão tình)

Và chị khẳng định sức mạnh vô biên trong câu chuyện “yêu” của phái đẹp:

Dưới cánh đại bàng, em là ngọn gió

đẩy tình anh cao vút đỉnh trời

(Nếu không có ngày anh hôn em)

Mạnh là nước, nhưng mềm cũng là nước. Người đẹp thủy chung cũng nhiều lúc yếu mềm sau những cuồng si réo gọi:

Cô đơn em cuồng réo tên anh

vớt vát môi tình vừa kịp khép

(Tình ơi)

Ước gì mưa rớt đầy sông

buồn trôi theo nước tôi bồng vui đi...

(Lạc quan khâu lại những bồi hồi qua)

Có cái gì trắc ẩn, đa đoan trong những cuộc tình buồn vui tận đỉnh? Có cái gì thao thiết ngông cuồng của một kẻ khát yêu khát sống cho tình yêu như mong muốn? Dường như Minh Đan đôi lúc cởi bỏ cả khuôn khổ ngôn ngữ để nói thật lòng mình...

Em đàn bà từ anh - thường trực

những khát khao không thể đặt vòng.

(Không thể đặt vòng)

Tôi khá bất ngờ khi thấy thơ chị gần đây lại hướng vào thế sự với một tư cách nữ công dân của một dân tộc chịu quá nhiều đắng cay trong lịch sử chiến tranh và thù hận. Nhiều nghịch lý xuất hiện trong thơ Minh Đan khi chị nhận ra "chìa khóa lương tâm tráo trở", "giữa cuộc người trao đổi bán buôn/ niềm vui nhỏ dễ gì ai thanh lý". Và chị tuyên ngôn về việc viết thơ:

những con chữ thay thế giấc mơ

những con chữ nằm nghe nhịp sống

những con chữ không lẩn trốn

những con chữ biết trở mình giữa chốn lao xao

(Điều kỳ lạ)

Với tinh thần "những con chữ không lẩn trốn", Minh Đan hướng ngòi bút vào những "lương tâm tráo trở", tha hóa đang ngày càng xuất hiện nhiều trong xã hội hiện thời:

Sáng nay con mắt đói hớ hênh dòng tin vắn

thông báo điều không lạ, không mới, không khẩu hiệu

"thủ trưởng làm việc trên… giường"

(Đi qua cơn đói)

Và thơ chị nhói đau trong câu chuyện nóng hổi về chủ quyền lãnh thổ của dân tộc mình:

Rào đường lưỡi bò chắn ngang cột mốc

bứng lấy chén cơm đời tôi khó nhọc...

(Gã hàng xóm xấu tính)

Đường lưỡi bò ngang nhiên quấy nhiễu

ta lặng im hay giả vờ thua?

(Điều kỳ lạ)

Những câu hỏi như xoắn lấy thơ chị, như găm vào thơ chị, tạo nên những giấc mơ nghẹn nấc:

Đêm nằm mơ thấy Bao Chửng khóc

áo hoàng bào bầm dập đòn roi

nỗi đau như xé đất trời

trảm sao hết những người xu nịnh.

Với cá tính sáng tạo của mình, Minh Đan đã làm hiện lên cái tình sâu thẳm của người thơ. Đó là tình yêu người tình và tình yêu dân nước da diết khôn nguôi.

Đọc "Phút 89" của Minh Đan, ta thấy thơ chị đang thoát ra khỏi những khuôn khổ chật hẹp để vươn tới cái cao cả của thi ca. Chị cũng loại bỏ dần những thô kệch chữ nghĩa để tìm đến sự tinh tế của tâm hồn nữ tính. Thơ là tình, là tính, nhưng thơ cũng là dụng công của sự học rộng hiểu sâu. Chính vì vậy, thơ chị cũng là giãi bày, chia sẻ với những tâm hồn đồng điệu.

Gấp lại tập thơ này, tôi cứ ám ảnh mãi bài thơ “Đôi khi” của Minh Đan – như một giới hạn đầy thân phận của người thơ:

Đôi khi muốn cháy rất nhiều

bỗng dưng tắt

nghẹn những kiêu hãnh rời

đôi khi muốn bật lửa trời

hong khô sợi nhớ

khát vời vợi xa

đôi khi muốn đốt thật thà

gom tro ủ những phôi pha vắn dài

đôi khi muốn cưỡi lưng mây

phi thân đọt nắng vỡ ngày vừa nhen...

Vâng, đôi khi muốn đốt cả thật thà để làm sáng lên một sự thật thiêng liêng. Đó là hai chữ “Sự Thật” viết hoa mà Minh Đan luôn hướng tới, dù ở cái phút áp chót của lựa chọn: Phút 89.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm