TIN TỨC

Bài thơ “Một nửa bông hồng”... và những trăn trở nhân sinh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-06 06:17:27
mail facebook google pos stwis
3338 lượt xem

LÊ XUÂN LÂM
 

MỘT NỬA BÔNG HỒNG
 

Tôi vào vườn hoa

ngắt một bông hồng.

và bạn có tin không

bông hồng chỉ còn một nửa.

 

Một nửa bông hồng mắc ở dây thép gai

tàn tích chiến tranh để lại

cánh hồng non tơ mềm mại

run run trên tay tôi.

 

Dẫu đi hết cuộc đời

chắc chẳng bao giờ tôi quên buổi ấy

khi tặng nửa bông hồng cho bạn gái

tôi chờ nỗi ngạc nhiên. Em chỉ mỉm cười

 

Một bông hồng xé thành hai nửa

đang héo dần, bạn ơi.

 

Cuộc chiến tranh đã qua lâu rồi

gai thép nhọn vẫn đâm vào hiện tại

tôi vô tình hái hoa cho bạn gái

trên tay tôi: Một nửa bông hồng.

 

27.11.1985

(Thơ Văn Công Hùng, tập “BẾN ĐỢI”, Hội VHNT Gia Lai, 1992).

 

MỘT CHÍNH LUẬN SẮC SẢO!

Thoạt tiên, tôi đọc thấy “một nửa bông hồng” như một tự sự, về cái khoảnh khắc rủi ro của tình yêu đôi lứa. Nhưng rồi bỗng tôi nhận ra bài thơ đúng thực là một chính luận thật sắc sảo, chuyển tải khá mạnh mẽ thông điệp cảnh báo về những bất hạnh thực sự đã và sẽ đến sau chiến tranh. Bạn nghĩ sao?...

 Lỗi phép nhà thơ, tôi xin làm một cách trình bày khác, không cách dòng như thơ, mà vẫn câu chữ ấy, nhưng xếp viết như bài văn. Bài văn đó sẽ như thế này đây:

 

MỘT NỬA BÔNG HỒNG

Tôi vào vườn hoa/ ngắt một bông hồng./ và bạn có tin không/ bông hồng chỉ còn một nửa./ Một nửa bông hồng mắc ở dây thép gai/ tàn tích chiến tranh để lại/ cánh hồng non tơ mềm mại/ run run trên tay tôi.

Dẫu đi hết cuộc đời/ chắc chẳng bao giờ tôi quên buổi ấy/ khi tặng nửa bông hồng cho bạn gái/ tôi chờ nỗi ngạc nhiên. Em chỉ mỉm cười 

Một bông hồng xé thành hai nửa/ đang héo dần, bạn ơi.

Cuộc chiến tranh đã qua lâu rồi/ gai thép nhọn vẫn đâm vào hiện tại/ tôi vô tình hái hoa cho bạn gái/ trên tay tôi: Một nửa bông hồng.

27.11.1985

           

Bạn hãy đọc đi! Nhưng đừng đọc như đọc thơ,mà như đọc văn, bạn sẽ thấy lời văn, giọng văn… có sâu sắc và thuyết phục như một chính luận không? Bạn cũng sẽ thấy luận đề chính ở đây chính là rủi ro bất hạnh thời hậu chiến như tôi vừa nói trên kia đấy!

Xin bạn hãy chú ý ngày tháng năm mà tác giả ghi dưới bài thơ. Để thấy chiến tranh kết thúc năm 1975, đến 1985 là vừa 10 năm chẳn. Tôi mách thêm thông tin này: Theo tác giả cho biết, thì năm 1958 là năm sinh của ông. Nghĩa là Văn Công Hùng hoàn thành bài thơ “một nửa bông hồng” năm ông 27 tuổi.

Năm 1985, hay như lịch sử vẫn ngoái lại, gọi là những năm 80 của thế kỷ trước, thì tính cho đến nay, cũng chưa phải đã xa xăm gì. Cho nên, những người trạc tuổi nhà thơ, ngay cả lớp em út sau này nữa, hẳn vẫn còn nhớ “những năm tháng không thể nào quên” ấy. Đó là năm ta kỷ niệm 40 năm Việt Nam Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa; là năm làn sóng người vượt biên, rời bỏ đất nước ra đi, để lại lịch sử tiếng Việt hai chữ “thuyền nhân”; là năm lạm phát phi mã, đổi tiền và thực thi chính sách giá – lương – tiền, trái quy luật kinh tế; là năm chiến tranh đã đi qua 10 năm, nhưng biên giới phía Nam, rồi phía Bắc đã và vẫn còn rền vang tiếng súng của những cuộc chiến giữ đất đẫm máu; đó còn là năm Đảng cầm quyền đang tiến tới Đại hội đổi mới tư duy…Bạn hãy nhớ lại đi! Ôi cái thời đất nước đói nghèo, quá khứ nhói đau …

Trong cái dòng chảy đó của lịch sử, của cuộc sống sau chiến tranh, câu hỏi muôn đời của con người lại dội lên nhức nhối : Tìm đâu thấy hạnh phúc, hạnh phúc đang ở đâu?!...

Hãy nhớ, năm 1985 Văn Công Hùng mới 27 tuổi đời. Là sinh viên trường Văn mới rời ghế nhà trường được vài ba năm, chưa phải đã là nhà thơ Văn Công Hùng như hiện nay, lại được điều lên công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Gia Lai – Kon Tum, một tỉnh Bắc – Tây Nguyên xa lơ lắc so với nơi anh được sinh ra và lớn lên. Nhưng có lẽ tình yêu thì hẳn là không xa lạ với anh. Và thêm nữa, có lẽ đây mới là điều quan trọng nhất, là tình thơ dường như đã được Trời phú sẵn cho trong máu huyết, ngay từ buổi cha mẹ sinh ra anh. Thế nên, Văn Công Hùng đã có lúc nhìn thời cuộc anh sống, bằng trái tim và con mắt của Nhà Thơ. Cảm nhận thấu tình cái hiện thực thơ ấy… để rồi bằng cái công cụ Thơ Trời cho, anh đã viết nên bài thơ “một nửa bông hồng” này. Để rồi, cho ta thấy, Văn Công Hùng đã mạnh mẽ cầm nguyên cả “một nửa bông hồng”, xông thẳng vào dòng chảy lịch sử nhân sinh kia, để cắm lên đó cái câu hỏi về tình yêu và hạnh phúc, với đầy những rủi ro, cam chịu; những chia lìa bất hạnh, không chỉ của riêng mình, mà còn của cả thế hệ vừa đi qua chiến tranh nữa. Sức luận chiến giữa hạnh phúc con người, với bất hạnh chiến tranh của “một nửa bông hồng”, vì thế đã đạt đến tầm phổ quán...

Thì đây, bạn hãy nhìn đây: “Tôi vào vườn hoa/ ngắt một bông hồng./ Và bạn có tin không/ bông hồng chỉ còn một nửa./ Một nửa bông hồng mắc ở dây thép gai/ tàn tích chiến tranh để lại/ cánh hồng non tơ mềm mại/ run run trên tay tôi.”

Thế đó, bạn có biết không: “Dẫu đi hết cuộc đời/ chắc chẳng bao giờ tôi quên buổi ấy/ khi tặng nửa bông hồng cho bạn gái/ tôi chờ nỗi ngạc nhiên. Em chỉ mỉm cười

Một bông hồng xé thành hai nửa/ đang héo dần, bạn ơi.”

Và xin bạn hãy nhớ. “Cuộc chiến tranh đã qua lâu rồi/ gai thép nhọn vẫn đâm vào hiện tại/ tôi vô tình hái hoa cho bạn gái/ trên tay tôi: Một nửa bông hồng.”

Rõ ràng, ai chẳng biết Hoa Hồng là biểu tượng của tình yêu và hạnh phúc!... Cũng không ai không biết cái “dây thép gai đâm nát trời chiều” kia là bản mặt tàn ác của chiến tranh. Và rồi vào hậu chiến, giữa vườn hoa hạnh phúc, cả khi chiến tranh đã đi qua, nhưng vẫn còn đó tàn tích mà chiến tranh để lại, đến đủ làm rách nát cả hạnh phúc đã tưởng như là không thể…

MỘT SÁNG TẠO THƠ ĐỘC ĐÁO!

Tôi xin cùng bạn trở lại nguyên tác “một nửa bông hồng” để cùng xem cái gì đã làm nên tính chính luận sắc sảo nêu trên, TỰbài thơ, TỪchính bài thơ này. Bởi vì, nếu trải ra như một luận văn thế kia, thì sứ mệnh chuyển tải thông điệp của nó sẽ mất đi biết bao truyền cảm, chỉ thơ mới chuyển tải được; hiệu quả cảnh báo nhân sinh của thông điệp, chỉ thơ mới khiến bao trái tim nhân tình thức tỉnh được…

 Thì đây, chính là bởi hình tượng thơ: MỘT NỬA BÔNG HỒNG ! Đó cũng chính là cái TỨ của bài thơ – một sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ của tác giả.

Câu chuyện khởi đầu từ việc chàng trai hăm hở vào vườn hoa, khẽ khàng, trân trọng, “ngắt” một bông hồng. Nhưng bạn có tin không”,“bông hồng chỉ còn một nửa” . “Một nửa bông hồng mắc ở dây thép gai”. Cái gai thép nhọn xé bông hồng thành hai nửa kia chính là“tàn tích chiến tranh để lại”. Và chao ôi!“cánh hồng non tơ mềm mại”. Cứ “ run run trên tay…”.

Tôi tự hỏi, vào vườn hoa cơ mà, sao cứ phải chọn hoa hồng để gặp phải rủi ro?! Rồi, hiểu rồi, là hoa để tặng “cho bạn gái”, cho tình yêu. Nhưng mà nhìn kìa, thật xót xa khi bông hồng hái được chỉ còn một nửa. Và một nửa bông hồng với những cánh hồng non tơ mềm mại đang run run…

Tôi lại tự hỏi, cánh hồng run run, hay bàn tay cầm nửa bông hồng run run? Cả hai! Một là thực thể và một nữa là tâm thế. Cái thực thể là cánh hồng. Nó run run vì bỗng bị xé thành hai nửa, không còn được là nguyên vẹn bông hồng nữa. Cái tâm thế là bàn tay của người cầm. Bàn tay cầm nửa bông hồng cũng run lên nỗi xót xa thương tiếc bông hồng bỗng bị xé thành hai nửa…

Luận đề “nỗi buồn chiến tranh”, thương đau hậu chiến, đã được hình tượng thơ MỘT NỬA BÔNG HỒNG  gợi lại, đặt ra; không phải bằng hàng trăm trang sách, hay hàng ngàn lời tuyên giáo, mà chỉ bằng một chữ “mắc” đầy rủi ro rình rập, với một thoáng “run run” bất hạnh khôn lường, trên bàn tay của khát khao tình yêu và hạnh phúc… Nhưng sao mà tôi thấy nhói lòng đến vậy!

Còn người được tặng hoa thì sao? “tôi chờ nỗi ngạc nhiên. Em chỉ mỉm cười” . Một chữ “chờ” và cái “dấu chấm” giữa câu thơ cho tôi biết cái tình yêu 27 tuổi kia không hề lơ ngơ, vội vã chút nào, khi nếu có thế thì cũng là phải nhẽ! Tôi nói thế, vì khi mới đọc qua lượt đầu bài thơ, tôi đã nghĩ “bông hồng chỉ còn một nửa. Một nửa bông hồng mắc ở dây thép gai”, chính là có nguyên do từ việc “ngắt” vội vàng, bất cẩn. Rủi ro ấy, nếu có, thì cũng là phải nhẽ thôi! Yêu thế kia mà, hồi hộp, vội vàng, rạo rực… thế kia mà!

Nhưng không phải! Chữ “mắc” giữa câu thơ cho tôi hay cái tình yêu kia đã đến điểm Hồng, không hề ngu ngơ, hời hợt. Có “ngắt” đấy, nhưng vẫn là một chọn lựa khá cẩn trọng. Phải điều, bông hồng rất đẹp kia, đã không thể gỡ ra nguyên vẹn. Để một nửa bông hồng đành đoạn “mắc” ở dây thép gai, thành một hệ lụy, một hệ quả… dĩ nhiên, đương nhiên, như hậu chiến là một thực tại, thực tồn – cái mặt sau tấm huân chương chiến công của chiến thắng! 

“Em chỉ mỉm cười” ! Một sự chấp nhận diễu cợt hay cảm thông, hời hợt hay khoan dung, vẫn quyết đi đến tận cùng hay đường ai nấy bước…?!... Không một hứa hẹn, hẹn hò nào được thốt thưa, thỏ thẻ ở đây cả. “Em chỉ mỉm cười... Và tôi bỗng nhận ra thông điệp từ chữ “chỉ” trong cái “mỉm cười” của em. Ấy là chấp nhận cảm thông, mà không hề diễu cợt; độ lượng khoan dung, mà không hề hời hợt. Nhưng còn cùng đi đến chung cuộc tình yêu ư… Hãy chờ đấy! đợi đấy!

“Một bông hồng xé thành hai nửa

đang héo dần, bạn ơi.”

Thực tại vẫn là thực tại. Không hề và cũng không được ảo tưởng. “Hoa dù đẹp mấy cũng tàn”. Bông hồng dẫu đẹp nguyên, vẫn héo. Đó là lẽ thường luật tử - sinh mà. Nhưng “Một bông hồng xé thành hai nửa/ đang héo dần,..” thì không phải là một lẽ thường nữa. Đó là tức tưởi, bất thường; đó là cưỡng bức, oan khiên… Một tình yêu và cái đẹp tưởng đã thoát khỏi chết chóc trong cuộc chiến, vẫn còn bị tàn tích của chính cuộc chiến ấy rình rập, chực chờ hũy hoại…  

“Cuộc chiến tranh đã qua lâu rồi

gai thép nhọn vẫn đâm vào hiện tại

Hậu quả dù là có thật, quá khứ dẫu có để lại nhiều đớn đau mất mát thật, nhưng dù sao “quá khứ cũng chỉ là cái đến trước tương lai mà thôi”. Nhưng hãy cứ hét lên đi, vẫn phải hét lên nữa đi! Bởi cuộc sống là một sự tiếp nối, nhân quả, nhân sinh. Vẫn biết “đêm dù tối nhất vẫn dẫn đến ban mai”, nhưng không có đêm thì sẽ không có ngày, ghi lấy, nhớ lấy!

“tôi vô tình hái hoa cho bạn gái

trên tay tôi: Một nửa bông hồng.”

MỘT NỬA BÔNG HỒNG! Đó cũng chính là cái TỨ của bài thơ, là một sự sáng tạo độc đáo của nhà thơ, và vẫn sẽ còn gây bất ngờ cho nhận thức thẩm mỹ của bất cứ ai tìm đọc và thức nhận thông điệp về “một nửa bông hồng” của Văn Công Hùng...

Tôi đã định kết thúc bài viết này, như ở trên đây, thì chợt nhớ lại chuyện xưa.

Rằng đã một thời người ta từng tranh cãi trường thiên, bất luận…  về cái gọi là “nghệ thuật vị nghệ thuật”, hay “nghệ thuật vị nhân sinh”, mà quên mất rằng, cãi nhau thế thì thật là vô bổ, cũng thật là vô nghĩa… Lại nữa, rằng “chính trị và nghệ thuật” là hai lĩnh vực khó chung sống hài hòa với nhau… Tôi nghĩ, còn phân biệt thế nữa thì cũng thật là vô minh.

Phải thấy rằng tất cả mọi sự đều có cái đích cuối cùng là nhân sinh bất diệt. Như bài thơ “một nửa bông hồng” của Văn Công Hùng được ta đọc ở đây, là nghệ thuật đấy, nhưng chính trị biết bao, nhân sinh biết bao! Bởi chỉ khi nào hình thức và nội dung đạt đến sự thống nhất hài hòa nhất, hữu cơ gắn bó nhất, thì đó mới chính là nghệ thuật nhân sinh đích thực.

Và đó là điều tôi đã thấy ở MỘT NỬA BÔNG HỒNG !

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm