TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Chất lý trí sắc sảo, chất tâm hồn đậm đà trong các tác phẩm báo chí của một Nhà báo, Luật gia

Chất lý trí sắc sảo, chất tâm hồn đậm đà trong các tác phẩm báo chí của một Nhà báo, Luật gia

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-06-13 08:57:43
mail facebook google pos stwis
1593 lượt xem

Th.S. nhà thơ NGUYỄN ĐÌNH MINH

Luật gia, nhà báo Nguyễn Văn Mạnh đã  gắn cả đời mình với làm báo viết, đi qua các thời kỳ bao cấp rồi đổi mới… Chịu áp lực của hoàn cảnh riêng và chung của những quy phạm nghề làm báo ngặt nghèo, nhưng Nguyễn Văn Mạnh đã vượt mình, anh không chỉ dừng ở vai trò như một phóng viên viết tin bài đơn thuần; ngược lại anh đã tạo lập nên không ít tác phẩm phóng sự và bút ký báo chí ấn tượng, nó có đặc điểm khá gần với bút ký văn học; và khi đọc nó lên hình ảnh chân dung cuộc sống, con người dưới ngòi bút của tác giả được tái hiện sinh động gắn với những tư tưởng mà tác giả muốn phản ánh.

Nguyễn Văn Mạnh viết gì?

Tiếp cận với các bài viết của anh từ vài chục năm nay và những bài gom lại trong tập sách “Theo dấu chân cuộc sống” Có thể nhận diện ngay một chủ đề quan trọng mang phẩm chất của một nhà báo đầy năng lực, đó là phản ánh những sự thật trần trụi của cuộc sống bằng cách riêng khá rõ. Điểm nhìn khám phá của tác giả rất chọn lọc, anh không tham đề tài mà luôn trọng việc chọn lọc khai thác đề tài để tạo dựng một mảng hiện thực nóng bỏng hoặc khuất lấp và gửi vào đó một thông điệp cuộc sống. Nó có thể là cuộc chiến cam go của các lực lượng chức năng với hoạt động buôn lậu “Nóng bỏng “Cuộc chiến thuốc lá lậu”; có lúc anh đồng hành lặng lẽ cùng ngòi bút để soi tìm và phơi bày cả sự thật ẩn núp trong cái “Thiên đường cờ bạc”… để rồi khi vấn đề vỡ ra người đọc thấy được những hiểm nguy, sự dũng cảm của các lực lượng chức năng đối mặt với nạn buôn lậu. Đồng thời, dựng được cả một thế giới ăn chơi sa đọa với thói lọc lừa, xảo trá… như những chiếc “bẫy mật” tha hóa nhiều nhân phẩm và nhấn chìm nhiều số phận. Cũng với “vỉa” đề tài này, nhiều lúc dường như thấy tác giả nghiêm lạnh phân tích những hiện tượng đời sống để tìm ra cái căn nguyên vì sao việc quy hoạch khu dân cứ Rạch Miếu ở quận Phú Nhuận thành phố Hồ Chí Minh không được ủng hộ từ lòng dân. Có lúc, anh chia sẻ thương cảm nhưng cũng rất sáng rõ trong thông điệp cảnh báo cách tìm con đường sống bất hợp pháp khi viết về số phận người Việt trong trại thu dung lao động bất hợp pháp người nước ngoài ở Đài Loan. Cũng với cách thức thâm nhập vào đời sống như vậy, tác giả khi thì hòa vào cơn “sốt chung cư cũ”, khi lại nhẩn nha tìm chuyện bên lề sân quần vợt hay soi tìm góc tối các vũ trường để tố lên cái hiện thực bi hài của một bộ phận người trong xã hội với cách làm ăn luồn lách, mập mờ… thời kinh tế thị trường đang góp phần làm băng hoại nền văn hóa dân tộc và chính họ cùng nhân viên của mình trong ấy cũng tự chuốc lấy những thảm cảnh bi kịch…

Số lượng những bài viết về mảng đề tài này ở Nguyễn văn Mạnh rất lớn và khó thống kê hết số bài anh viết vì anh là nhà báo và sứ mệnh anh được trao chính là viết về sự thật này. Khái lược một vài ý như vậy để thấy được sự nhạy cảm tinh tế cũng như cái “dũng” của một nhà báo như anh bằng tài năng nghiệp vụ đã dám đến với hiện thực, nói tiếng nói hiện thực bằng lương tâm và chính kiến của mình.

Điều trân quý là ngòi bút của Nguyễn văn Mạnh là khi dùng ngòi bút phản ánh sự thật thì anh dành trọng số cho việc viết những nội dung về thân phận con người. Ta cảm nhận thấy tác giả luôn đứng về “phe nước mắt” để bênh vực người yếu thế và chống lại bất công, cái ác, thói gian tham… Ở đây có thể nói đến chùm bài viết về thân phận những cô gái Việt lấy chồng Đài Loan hay Hàn Quốc: “ Chuyện đời cô dâu Việt ở xứ Đài”,“ Những điều trông thấy ở trại thu dung Tam Hiệp – Đài Loan”... Ở những phóng sự này, ngòi bút sắc sảo của anh tái hiện được những số phận bi đát của nhiều cô dâu lấy chống ngoại quốc, nhưng đổ vỡ trong tâm hồn họ khi sống trong sự thật đầy bi kịch nơi miền đất hứa mà họ mộng ảo về nó một thời. Ngay trên đất Việt, khi mà mặt trái của cơ chế thị trường tác động nhiều số phận cũng nổi nênh bi đát. Những bút ký của tác giả có dấu ấn gần gũi như những câu chuyện kể mà khi đọc và ngẫm thấy xót lòng: “Vất vưởng thợ may công nghiệp”, “Nài ngựa, sinh nghề tử nghiệp”, “Thương lắm tóc dài ơi”… Những bức chân dung về con người thời mở cửa cũng được phản ánh sinh động ( Ông “vua” khoai mì, “Nữ chúa” đảo hoang, Săn hung thần biển cả) hay “Người gieo chữ ở Trường sa”… Họ là những con người vượt khó, dũng cảm trong lao động, trong đấu tranh với tự nhiên nhưng hào hiệp, nghĩa khí, trái tim tràn ngập yêu thương, họ sống vì mình đồng thời vì đồng loại vì xã hội. Câu chuyện về họ được thuật, kể bằng ngôn ngữ đại chúng nhưng lại khá giàu màu sắc văn chương.

Nguyễn Văn Mạnh, đi nhiều viết nhiều, trong số những sản phẩm báo chí anh gom lại được có một mảng đề tài về quê hương, đất nước, bè bạn… Đọc những bài này, cái sắc lạnh phê phán, những hiện thực trần trụi của đời sống dường như mờ chìm đi khá nhiều thay vào đó là những trang viết đằm thắm yêu thương. Có lẽ đây cũng là một khía cạnh khác góp phần tạo nên giọng điệu đa thanh trong phong cách viết của anh. Hình ảnh quê hương làng xóm (Về lại quê hương), tình cố nhân với nhiều vui buồn hoài niệm (Bạn học ngày ấy – bây giờ). Trong nhiều trạng huống khác anh đắm mình với cảnh sắc thiên nhiên hay thăng hoa với âm thanh rộn rã của cuộc sống (Một thoáng Sa Pa), có lúc chùng xuống nao lòng đầy tâm sự với nỗi niềm con người giữ khoảng không gian thời gian điển hình cho tâm trạng nhớ thương (Bất ngờ chiều giáp tết)… Trong trường khúc viết về quê hương đất nước ấy có những bài báo ấn tượng và mang tầm tư tưởng chiến đấu cao, dù sự kiện trong bài không nhiều ví như “Trường sa”; ở đây thông qua tường thuật một cảnh sinh hoạt của các chiến sỹ trên biển, nhưng giữa trùng khơi lại gợi lên những  xúc cảm xót thương căm giận bọn xâm lược… nhưng cũng rất đỗi tự hào về những người đồng chí đã quyết tử khẳng định chủ quyền dân tộc năm nào…

Những tác phẩm báo chí của anh viết theo hướng này rất gần gũi với văn học, chất văn khá rõ, bởi vậy người ta có thể nhìn thấy từ các con chữ tiếng vọng tâm hồn của một nhà báo.

Đọc tập sách của anh ta dễ hình dung ra con người Nguyễn Văn Mạnh,  anh hăm hở đi, hăm hở viết với dấu ấn nhiều vùng miền đất nước và nước ngoài. Hình như mỗi địa danh anh đến đều có một tác phẩm. Từ quê cha đất tổ của anh, đến Trường Sa, Tây Bắc, Tây Nguyên đến các nước Lào, Thái Lan, Singapo… Cái khác biệt trong những tác phẩm báo chí này của Nguyễn Văn Mạnh nó biểu hiện ở chỗ không chỉ dừng ở bên ngoài như sự miêu tả phản ánh đơn thuần, nó có chiều sâu không gian nhiều lớp và có cả những vùng tối cũng lộ diện trước ánh sáng khám phá của ngòi bút. Có thể minh chứng điều này qua các tác phẩm “ Thâm nhập thiên đường cờ bạc”,  “Góc khuất đêm Sài Gòn”, “ Xóm vé số”…

Sứ mệnh của anh nhà báo là dùng đủ mọi thứ giác quan để chứng kiến sự thật và rồi dùng kỹ thuật, kỹ năng cả cảm xúc nữa và bằng ngôn từ để hình thành một bức “chân dung cuộc sống” thật sống động mà độ trung thực lại phải cao. Cái khó của người làm báo chính là ở chỗ không được hư cấu, câu từ dùng phải giảm thiểu tối đa lớp nghĩa văn chương; ngôn ngữ cơ bản của một tác phẩm báo chí mà nhà báo sử dụng là ngôn ngữ phổ thông, trong sáng, hầu hết chỉ mang một lớp nghĩa cho tất cả người đọc ở mọi trình độ đều nhận biết được. Đứng trước áp lực về tính tư tưởng và phong cách báo chí mang tính quy ước như một mặc định, Nguyễn Văn Mạnh đã khéo léo hòa hợp được chất báo chí với chất văn chương làm cho bài báo của anh đọc lên không phải khô khan sắc lạnh mà từ đó còn thấm đẫm chất tình…

Trong cuốn sách này có lẽ Nguyễn Văn Mạnh muốn gom lại vốn gia tài báo chí của mình với những bài viết mà anh tâm đắc đã được in trên rất nhiều báo chí: Bảo vệ pháp luật, Văn hóa doanh nghiệp, Quân khu Bảy, Sài Gòn giải phóng, Nhân đạo & Đời sống, Tác phẩm mới, Giáo dục & Đời sống…tất nhiên có rất nhiều bài báo anh không thể lưu giữ được vì thời gian đi và viết của anh dài tới mấy chục năm, đặc biệt những bài anh viết ở thời kỳ công nghệ số còn chưa xuất hiện. Mặc dầu vậy với vốn gia tài hiển thị trong cuốn sách này ta cũng đủ thấy được chân dung một nhà báo có tâm có tầm luôn hướng ngòi bút của mình cho cái thiện cái đẹp, cho nhân dân, đất nước và vì sự tiến bộ.

N.Đ.M

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm