TIN TỨC

Chỉ còn lại tháng Tư thiếu nữ | Thơ và lời bình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-04-30 21:19:37
mail facebook google pos stwis
2244 lượt xem

MAI NAM THẮNG


 

HOA LOA KÈN


Người nép bên hoa đã thành vĩnh cửu

Người chia tay hoa đã hóa vô danh

Hoa cánh rừng sốt rét tái xanh…

Hoa vầng trăng hạ tuần ối đỏ!

 

Chỉ còn lại tháng Tư thiếu nữ

Trắng kiêu sa lộng lẫy Hà Thành

Trắng tinh khôi lời hẹn hò thứ nhất

Trắng dịu dàng năm cánh mỏng xinh...

 

Và tháng Tư hồi âm

Mùa hoa nâng những bước chân thần tốc

Mùa hoa dâng bản hùng ca náo nức

Riêng những nốt trầm tê tái rụng về hoa...

 

Sớm mai này tháng Tư

Chị lặng lẽ thắp hoa

Sau hương khói nụ cười nhói trắng.
 

                    4/2005



Lời bình của nhà thơ PHẠM ĐÌNH ÂN (đăng Tuần báo Văn nghệ)

Từ nhiều năm qua, sự kiện đại thắng mùa xuân năm 1975 đưa đến kết thúc vẻ vang cuộc chống Mỹ, cứu nước, giành lại sự toàn vẹn non sông Tổ quốc, trong đó, có một ngày cuối cùng, ngày 30 tháng Tư chói lọi, mở đầu một mùa hè mới rực rỡ nắng, cờ đỏ sao vàng và hoa, đã trở thành một đề tài lớn, với nội dung rất phong phú, lôi cuốn giới sáng tác văn học, nghệ thuật.

Đã có nhiều bài thơ đề cập ngày 30 tháng Tư, không ít những tác phẩm xuất sắc. Độc giả hẳn chưa quên bài thơ “Nếu không có Ngày 30 tháng Tư” của nhà thơ Đinh Thị Thu Vân, từng được coi là bài thơ hay và thuộc số những bài thơ đầu tiên về sự kiện trọng đại này.

Cũng viết về ngày 30 tháng Tư, nhưng Mai Nam Thắng có cách nói riêng. Bài thơ Hoa loa kèn nói đến hoa và người con gái, cả hoa và người đã có mặt trước, trong và sau tháng Tư cho đến hiện nay. Không chỉ là ngày 30, đây là tháng Tư ngày đã chuyển thành tháng, tháng đã chuyển thành biểu tượng, kẹp đôi với biểu tượng hoa.

Một bên là thời gian - thời điểm và hoa thuộc phạm trù thiên nhiên, ngoại cảnh. Một bên là con người: "Người nép bên hoa đã thành vĩnh cửu/ Người chia tay đã hóa vô danh...". Hoa của ngày xưa, người của hôm qua. Cả hai đã hóa thân vào thiên nhiên đất nước trong chiến tranh: "Hóa cánh rừng sốt rét tái xanh/ Hoa vầng trăng hạ tuần ối đỏ!".

Ở khổ thơ đầu tiên, hai câu trên nêu ra một sự việc đã trở thành quá khứ. Đột ngột hai câu sau, cái quá khứ của hoa, của người trở về trong hiện tại. Họ trở về một cách khốc liệt, hào hùng.

Bài thơ tiếp tục được triển khai, độc giả được tiếp cận một không gian và thời gian cụ thể về hiển ngôn mà không cụ thể về hàm ngôn. Cái còn lại, tức là cái đang hiện hữu, lại vẫn chính là cái hôm qua, cái có trước ngày 30 tháng Tư: "Chỉ còn lại tháng Tư thiếu nữ/ Trắng kiêu sa lộng lẫy Hà Thành/ Trắng tinh khôi lời hẹn hò thứ nhất/Trắng dịu dàng năm cánh mỏng xinh…". Hôm qua là hôm nay và ngược lại. Thời gian làm nên cái vĩnh cửu. Tất cả mọi tháng đều là tháng Tư. Tất cả những người con gái đã mất người yêu, người chồng do chiến tranh, vẫn đang là những người con gái ngày ấy. Giá trị thuộc về vĩnh cửu.

Hoa loa kèn chỉ nở vào tháng Tư, tháng của cuộc hành quân thần tốc lịch sử, tháng của bản hùng ca bất tử và cũng là tháng của những mất mát, hy sin... Vì vậy, dẫu có thế nào đi nữa, nhà thơ Mai Nam Thắng vẫn không thể không viết: "Mùa hoa dâng bản hùng ca náo nức/ Riêng những nốt trầm tê tái rụng về hoa...". Sự mất mát, hy sinh to lớn là có thật. Cái bi hùng càng là hiển nhiên. Nhưng, vượt lên trên tất cả là hoa, là cái đẹp của người thiếu nữ như hoa buổi đầu hẹn ước: dịu dàng, trong trắng, tinh khôi...

Thiếu nữ ngày ấy khi kết thúc bài thơ, hiện ra không phải là thiếu nữ mà là chị - một người phụ nữ trong hiện tại: "Sớm mai này tháng Tư/ Chị lặng lẽ thắp hoa/ Sau hương khói nụ cười nhói nắng. Thắp hoa?". Đúng vậy. Hoa cùng hương. Hương hoa và hương khói. Mấy chữ đầu là nép bên hoa, mấy chữ kết thúc bài thơ là nụ cười nhói trắng. Phải chăng, đến hôm nay, niềm xót đau đã tiêu tan, chỉ còn lại niềm vui?

Không phải thế! Chỉ hai câu thôi: "Mùa hoa dâng bản hùng ca náo nức/ Riêng những nốt trầm tê tái rụng về hoa" đã cho thấy sự việc diễn ra nghịch lý biết nhường nào, buốt xót đến bao nhiêu! Ngay cả thắp hoa cũng là nghịch lý khi khép lại bài thơ.

Tuy nhiên, nỗi đau xót của những số phận riêng lẻ nếu được đẩy đến tận cùng chăng nữa thì có thể sẽ giảm đi rất nhiều trước chiến thắng lẫy lừng đã cứu được cả một đất nước, cứu được cả một dân tộc. Sau hương khói nụ cười nhói trắng là như vậy. (Xin lưu ý ở đây là nụ cười nhói trắng. Nhói đi ngược lại nụ cười và màu trắng như ánh sáng, tức là trái ngược với niềm vui).

Trên cơ sở một tứ thơ ảo diệu, bài thơ vẽ lên một bức tranh đời sống, bức tranh tâm hồn bằng một xúc cảm tinh tế, với một nét bút tài hoa.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm