TIN TỨC

“Biển về bên sông” - Tập tuyện ký nhiều ám ảnh

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-09 22:34:59
mail facebook google pos stwis
1995 lượt xem

  (Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Cao Thanh Mai - nguyên Thượng tá, giáo viên Văn trường Quân sự QK9, đã nghỉ hưu, hội viên Hội Nhà văn Cần Thơ, rất đam mê văn chương, đã có nhiều truyện, ký đăng báo, tạp chí Trung ương và địa phương. Chị đã đoạt giải Tư với tác phẩm đầu tay “Trầu không xanh lá” (Giải thưởng viết về Nông nghiệp, Nông thôn, Nông dân Việt Nam do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn phối hợp với Hội nhà văn Việt Nam tổ chức năm 2015). Năm 2018 chị cho ra mắt tiếp hai tập truyện ký: “Chim cánh cụt biết bay” (NXB Văn học, 2018) và tập “Biển về bên sông” (NXB Hội nhà văn - 2018). Năm 2021 lại xuất bản tiếp tập truyện ngắn “Về miền xa lắc” (NXB Quân đội nhân dân). Có thể nói trong 5 năm mà xuất bản được 4 tập truyện như vậy quả là bút lực rất dồi dao. Tập nào cũng chững chạc và để lại được dấu ấn trong lòng bạn đọc.

Nhà văn Cao Thanh Mai

       Với sáu truyện ngắn và hai mươi lăm bài ký, Cao Thanh Mai đã đề cập đến nhiều đề tài xoay quanh số phận những con người trong cuộc sống đời thường. Nhân vật đa phần là những phụ nữ, những em bé bất hạnh ở nhiều miền quê hay phố thị. Con người, cảnh vật trong truyện được hiển hiện dưới ngòi bút rất sống động qua cách kể, cách tả, cách phân tích tâm lý nhân vật và cách dẫn truyện rất tự nhiên như cuộc sống vốn có nhưng được chon lọc và nâng lên tầm khái quát.

      Truyện “Biển về bên sông” có thể xem là tiêu biểu cho bút pháp của tác giả. Chị đã khéo vận dụng các thủ pháp nghệ thuật, như: cách đặt tên truyện, tên nhân vật mang tính biểu trưng. Biển là tên nhân vật và Biển cũng là đại dương. Biển về bên Sông. Sông là nguồn cội là quê hương để nước chảy ra biển. Mẹ của Biển tên là Giang (sông), Ba của Biển là Hải (biển). Nhà văn Ilia Eren bua (người Nga) đã viết: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vài đại trường giang Vonga. Con sông Vonga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Từ lòng yêu sông yêu biển tác giả nâng lên tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người. Các nhân vật trẻ con của miền sông nước như: thằng Te, thằng Xe, thằng Tèo, thằng Biển nô đùa, nhảy nhót, bơi lội trên dòng sông thật hồn nhiên, đáng yêu. Cuộc sống buộc Biển phải xa bà, xa bạn để ra phố chợ sống với mẹ trong gian nhà trọ chặt hẹp tăm tối. Tác giả đã vẽ nên bức tranh tình người nơi phố thị thật đáng cảnh giác và nhạt nhẽo với nạn trộm cắp, lừa lọc, gái điếm… Và cuối cùng Biển đã gặp được ba nó là Hải, sau mười mấy năm xa cách mà lâu nay chịu tiếng “không cha’. Nhưng mẹ Giang có chập nhận ba hay không, câu chuyện còn bỏ lững: “Xin lỗi, anh nhầm rồi. Tôi chưa từng quen anh”. Còn Hải thì vẽ ra một cảnh đẹp có hậu: “Biển ơi, con sẽ là bờ vai cho mẹ con tựa vào. Lức nào nhớ con sông que con hãy chạy về tắm gội cho sạch bụi trần. Ở đó con sẽ thấy yên ả, thanh bình, khi những kỷ niệm của tuổi thơ ùa về, con sẽ hiểu mỗi người đều có cội nguồn., nếu ta không chê nó thì nó sẽ là bến bờ neo đậu hồn ta…Ngày nào đó ba sẽ đưa con thăm lại nơi con được sinh ra bên bờ biển xanh thẳm trải dài cát trắng. Từ sông quê ra biển lớn là cả một quá trình dài phải đánh đổi nhiều thứ”. Và kết thúc truyện theo lối bỏ ngõ (bỏ lửng) để người đọc tiếp tục “đồng sáng tạo” tìm ra ẩn số cho cuộc tình này giữa Giang và Hải.

     Cao Thanh Mai rất chú ý đến cách bố cục truyện mang tính hiện đại, khác với bố cục truyền thống có các sự kiện, sự việc bố trí theo trật tự thời gian, theo tuyến nhân vật đối lập: thiện-ác, đẹp-xấu, cao-thấp… Truyện đi từ lung khởi, dẫn dắt đến đỉnh điểm, xung đột và thường kết thúc có hậu. Thi pháp hiện đại mở rộng biên độ cho người sáng tác tự do lựa chọn thời gian, tuyến nhân vật, có thể đảo lộn nhưng phải theo một tư duy logic hợp lý. Với cách miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tác giả luôn tạo được những tình huống bất ngờ, có xung đột, kịch tính, miêu tả khi trực tiếp, khi gián tiếp dùng ngoại cảnh, hoặc nhân vật khác nhận xét để nói hộ, điều này chị tỏ ra rất vững vàng trong bút pháp.

      Những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống hôm nay đều có mặt trong truyện như: viết về sự hy sinh thầm lặng của người phụ nữ trong cuộc chiến mà ít người biết đến, những vết thương lòng khó giám định. Chỉ có những người trong hoàn cảnh ấy mới cảm thấy hết sự hy sinh cao đẹp và thầm lặng của người phụ nữ, nhất là những phụ nữ nông thôn chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh.

       Ở phần “Ký” mà chị gọi là “Tạp bút”, tôi rất ấn tượng với bài“Đi tìm quê cho ba”. Tác giả để lại trong lòng người đọc nhiều xúc động. Chị là người con hiếu thảo, và có một quyết tâm cao là phải tìm bằng được quê cha đất tổ ở Nam Định mà người cha già đã gần 80 tuổi vẫn chưa biết quê. Ba chị là một chiến sĩ cách mạng tù Côn Đảo, còn má mất sớm. Con tìm về quê nội của ba với quảng đường hàng ngàn cây số, bao vất vả, gian lao, dò tìm tung tích, đường xá như người mò kim đáy biển. Và ý nguyện của con như có sự linh ứng, sự mách bảo của tổ tiên, của những người cùng dòng họ trợ giúp. Và ước mơ ấy đã biến thành hiện thực. Chị ngậm ngùi kể lại: “Ba tôi là đứa con Cha Bắc mẹ Nam, lại mồ côi mẹ từ bé thiếu thốn tình cảm của người thân, nên mọi yêu thương ba dồn hết cho con, cho cháu. Ba là một chiến sĩ cách mạng từng là người tù giữa địa ngục trần gian nơi Côn Đảo. Tôi biết trong thâm tâm ba nghĩ gì và tôi thực hiện chuyến đi này. Cha mẹ không từ con. Quê hương luôn dang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ tìm về. Tôi đã giúp ba tìm về nơi ba muốn đến”. Ở bài ký này tác giả vận dụng thủ pháp: nghe, kể, nhìn, cảm đan xen, không một chút hư cấu. Cái tình chân thành là “điểm sáng” thẩm mỹ, là điểm nhấn trong bài ký. Những gì chị nghe, thấy, và cảm nhận, được sàng lọc chi tiết đưa vào bài viết, chứ không phải là một bản ghi chép chỉ kể lại lịch trình địa lý đi từ Nam ra Bắc như một bài báo đơn thuần.

      Với tập truyện ký “Biển về bên sông” chị đã cho người đọc thấy được nhiều cảnh đời, có lúc như “Cái cơi đựng trầu” không biết “Lá rụng về đâu” mà “Vì đâu nên nỗi”. Có khi lại thấy “Nước mắt quanh mi” và khi “Ngoảnh lại là người dưng”. Những thân phận người mưu sinh, người áo rách, những phận bạc, những ước mơ mong manh… Và những lời của má nói với con, những “Tiếng gọi ân tình” “Chạm tới tim mình” đều rưng rưng một nỗi niềm nhung nhớ theo con chữ đến với trái tim. Đặc biệt hai lá thư ở cuối tập sách “Thư cho em” như những lời gan ruột chắt ra từ những trăn trở, với những niềm vui và nỗi đau được viết sau chuyến đi thực tế Sóc Trăng và An Giang gửi cho người em đất Bắc.

      Ở truyện ngắn nào, bài ký nào của Cao Thanh Mai ta cũng thấy ánh lên vẻ đẹp nhân sinh cao cả qua giọng kể nhỏ nhẹ rất có duyên của người con gái mang hai dòng máu Nam – Bắc này. Tác phẩm góp phần thôi thúc ta phải làm gì để sống tốt hơn, phải đẩy lùi cái ác, cái xấu như những thứ rác rưởi đang lấn vào cuộc sống chúng ta. Cho dù, như chị nói “Sống play rất khó”.

     Đọc “Biển về bên sông” ta bị ám ảnh bởi truyện của chị viết về mảnh đất và con người nhiều vùng miền, đặc biệt là con người Nam Bộ rất sống động. Văn mạch, ngôn từ khá chuẩn mực, vì bản thân tác giả là một giáo viên Văn đam mê văn chương từ nhỏ. Giọng văn trong trẻo cuốn hút, thỏ thẻ ngọt ngào như “nước dừa xiêm” của người con gái Nam Bộ thật dễ thương. Ở mỗi truyện ký là một “lát cắt” của cuộc sống đương đại. Hình ảnh con người và thiên nhiên trong truyện mang đậm hồn cốt miệt vườn Nam Bộ đậm sắc thái dân tộc, đã tạo được dư ba cho người đọc. Tôi vẫn tin đường văn của Cao Thanh Mai sẽ còn tiến xa hơn nữa ở những tác phẩm tiếp theo. /.

                                                                                                                                                                                                                     Lê Xuân

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm