TIN TỨC

Thạch Lam: Bóng hoàng lan xao động

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-03-25 09:47:34
mail facebook google pos stwis
1057 lượt xem

“Nga đến, trên con đường lát gạch Bát Tràng rêu phủ dưới vòm sáng vắt ngang mái tóc. Thanh từ trên tràng kỷ lẳng lặng ngồi dậy, cố giấu đi phút xáo động của niềm hân hoan. Là nàng, người con gái vẫn nhặt hoa hoàng lan với chàng thuở nhỏ….”. Những dòng văn nhẹ như áng thơ ấy dẫn Thanh bước vào tình yêu tuổi trẻ, dẫn ta bước vào thế giới trong như một mảnh trời xanh của Thạch Lam.

Chất thơ trong từng trang viết

Tấu khúc của văn chương là một bản cello với những giai âm đa tầng. Chúng rung lên như một chiếc lá giữa những đợt chuyển mình của gió, dìu dặt đón lấy hơi thở của đất trời rồi thả mình chao liệng giữa thinh không. Trong đó, tôi nghĩ những nốt trầm nhẹ bẫng dành riêng cho Thạch Lam, ông gảy nên nốt Đô rồi thả tay đến âm Rê, sẽ sàng chuyển sang Mi, còn Sol sẽ là bậc âm cao nhất, cũng là bậc âm cuối cùng. Có người bảo thứ văn ấy nhẹ như những cánh bướm non khẽ đậu trên trang giấy, chúng đậu vào lòng người bằng thế giới nghệ thuật được khúc xạ qua lăng kính của ông.


Nhà văn Thạch Lam.

Khác với những cây bút của “Tự lực văn đoàn”, đề tài quen thuộc của Thạch Lam không phải những cảnh sống được thi vị hóa, những mơ ước thoát ly, những phản kháng yếu ớt trước sự trói buộc của lề thói đạo đức phong kiến như “Đoạn tuyệt”, “Hồn bướm mơ tiên”… Thạch Lam, trái lại, đã hướng ngòi bút về những phận đời bé mọn trong xã hội. Họ là người trí thức, người nông dân, người lao động phải vật lộn giữa hiện thực và ước mơ. Đó là hai đứa trẻ thức đợi đoàn tàu trên một phố huyện nghèo (Hai đứa trẻ), là tình yêu chớm nở giữa Thanh và Nga (Dưới bóng hoàng lan), là cô Tâm hàng xén, đôi hàng gánh cong xuống và rên rỉ (Cô hàng xén), là mùa đông xứ Bắc, hai chị em Sơn lén mẹ lấy áo bông cũ tặng cái Hiên đang tím tái vì gió lạnh (Gió lạnh đầu mùa),…

Thật ra, mỗi nhà văn đều có những không gian nghệ thuật của riêng mình. Mạc Ngôn có vùng quê Cao Mật tiêu điều, rách nát, ám ảnh trong những niềm “hoan lạc”, Nguyễn Tuân có không gian ký vãng được dựng nên từ hồi ức và cái đẹp cổ kính, với Thạch Lam nơi ông thả những suy nghĩ xuống trang giấy là phố huyện Cẩm Giàng. Dưới ánh trăng lợt lạt màu xám bạc như gương mặt của thị xã, ông lắng nghe cuộc đời.

Màu xanh trong văn Thạch Lam tĩnh lặng, như thứ mực xanh lắng lại dưới đáy của một ly nước mát. Từ đó, những miền đời cô tịch dần hiện lên trên bức phông nền không gian, thời gian. Khung cảnh thường thấy là những làng quê xứ Bắc, những khu chợ tồi tàn với bầu trời ảm đạm của tiết đông mưa phùn, những phố huyện nghèo khổ, thê lương. Trữ tình, ấm áp và nhẹ nhàng, thế giới ấy bất chấp những khái niệm về cốt truyện thông thường, đã kể những chuyện tình ngọt ngào nhất thế gian mà cũng buồn bã nhất thế gian.

Một thứ văn chương với những vực xoáy, những run rẩy, những cuồng nhiệt, những rụt rè, những tàn phai. Lam không bắt ta bước vào một mê cung ngột ngạt, một cuộc rượt đuổi điên cuồng nhưng những tình tiết dù nhỏ nhặt vẫn làm người đọc phải bồi hồi, suy ngẫm. Đan xen vào những ký ức buồn vui của tuổi mới lớn, trong sáng và mong manh như những hạt sương là ký ức tuổi thơ, tình yêu thời son trẻ, tình cảm gia đình và cả những rung động ngây ngô những năm thiếu thời. Phải thôi, vì từ niên thiếu, Thạch Lam đã gắn đời mình vào đời của những người nghèo sớm bị đẩy vào miền lãng quên của thời cuộc.


“Gió lạnh đầu mùa” là tập truyện ngắn đầu tiên của Thạch Lam, xuất bản năm 1937.

Ở không gian nghệ thuật ấy luôn có sự xuất hiện giữa ánh sáng và bóng tối. Trong Hai đứa trẻ, những đốm vàng le lói mà Thạch Lam vẽ là sự tàn lụi chăng? Không, chúng là những vì sao. Lam đi bắt sao. Ông không vẽ về lãng quên vì cuộc đời đã quá nhiều những bi ai, đoạn tuyệt, con người thì chẳng nên để cuộc đời nhuốm màu xám tro. Nên Lam không than khóc, ông cho chúng ta chút ánh sáng le lói về đời. Thạch Lam là vậy, một mình một kiểu theo lối rẽ riêng.

Giữa nhịp đời đen tối, nhàn nhạt, chỉ có bóng đêm, Thạch Lam vẫn vẽ ánh sáng, rồi vẽ những vệt sáng qua khung cửa sổ, vẽ cỏ cây, vẽ những con người khốn khổ háo hức đợi đoàn tàu, sự sống tràn vào trang viết của Thạch Lam, phố huyện bừng sáng, cuộc đời căng mọng, ước mơ lại đâm chồi. Ông vẽ những căn nhà với những bóng hoàng lan, những tấm rèm phơ phất, những cuộc tình tươi đẹp, người chủ của những căn nhà ấy hẳn là rất yêu đời, chỉ khi yêu đời người ta mới trang hoàng nhà cửa. Chán đời người ta chẳng thiết tha.

Văn chương khiến “người gần người” hơn

Trong những tác phẩm của mình, Thạch Lam khiến tôi nhớ đến Fyodor Dostoevsky như một người thầy với triết lý nổi tiếng “Cái đẹp cứu rỗi thế giới!”. Dostoevsky viết trang nhật ký của kẻ mộng mơ, ông từng sa vào nỗi cô đơn, vào bệnh tật, vào những cơn thiếu ngủ, vào những tranh đấu bên trong bản ngã của con người. Và một trong hai văn hào vĩ đại nhất nước Nga đã viết thế này: “Con người thỉnh thoảng, bằng một tình cảm phi thường và nồng nhiệt, họ yêu sự đau khổ: đó chính là sự thật.” Theo Dostoevsky, sự đau khổ luôn đeo đuổi chúng ta, cuộc đời chỉ là một tiến trình thay đổi trọng tâm của nỗi đau chứ không thể nào di dời nỗi đau, sẽ luôn có thứ gì đó làm chúng ta đau đớn.

Còn với Nguyễn Tường Vinh “Cái đẹp man mác khắp vũ trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi vật bình thường. Công việc của nhà văn là phải hiểu cái đẹp ở chính chỗ mà người ta không ngờ tới”, song chính bản thân Thạch Lam cũng từng tâm sự rằng: “Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ. Vì chỉ sống thôi cũng đã quý lắm rồi. Người ta không bao giờ nên phí phạm cái sống, coi thường cái sống”.

Thạch Lam là một thi sĩ, ngay cả khi viết truyện ngắn ông cũng là một thi sĩ hơn là một văn gia, và ông đã làm đúng như những gì Dostoevsky đặt ra. Mỗi truyện ngắn của ông như một bài thơ về những thân phận nhỏ bé, côi cút và bất hạnh, gợi sự thương cảm, xót xa sâu sắc của tình người. Ông nuốt hết mọi chất độc, ông căng hồn mình như một cánh diều no gió rồi lắng nghe cuộc đời thổi vào đó những hợp âm.

Nhưng nếu không như thế, Lam sẽ không thể viết ra những câu văn đầy chất thơ, rằng “bóng tối dịu và man mát loáng qua những màu sắc rực rỡ”, “sương mù xuống phủ cả cánh đồng, và gió lạnh nổi lên: Tâm thu vạt áo lại cho đỡ rét, lần theo bờ cỏ đi”, rằng “con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua. Một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”.

Xúc cảm ấy chỉ có thể bắt nguồn và nảy nở lên từ những chân cảm đối với tầng lớp dân nghèo thành thị và thôn quê. Thạch Lam biến đổi những chất liệu thô từ hiện thực thành hình tượng, những chất liệu thị giác thành chất liệu xúc giác, ông đi từ thế giới này sang thế giới kia như đã biết lối tắt dẫn hiện thực vào giấc mơ, ông là một nhà văn lãng mạn đích thực.

Phạm Quỳnh, chủ báo Nam Phong từng viết: “Người ta nói tiếng thơ là tiếng kêu của con tim. Người Tàu định luật nghiêm cho người làm thơ thực là muốn chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy cho nó hay hơn nhưng cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng tự nhiên vậy”.

Trong những năm 1930, cái nghịch lý hiển nhiên, sự đối thoại trực diện của chủ nghĩa lãng mạn với một nề nếp thơ ca chở đạo đã tạo ra một cơn địa chấn, khai nguyên một ngôn ngữ mới. Trên quãng đôi mươi, Thạch Lam bước vào văn đàn với tất cả mộng ước và nhạy cảm của một tâm hồn yêu sự sống. Tương tự tư tưởng của các cây bút cùng thời, ông vắt ra từ thế giới nội tâm của con người những đớn đau, quằn quại.

Ông coi văn chương là cái đẹp man mác len lỏi khắp thế gian. Nhưng hơn tất cả chúng phải là một thứ khí giới “thanh cao và đắc lực”, vừa tố cáo và thay đổi một thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm “trong sạch và phong phú hơn”. Ta đọc văn ông như nghe một chiếc đĩa than trên máy hát, chạy hết lớp giai điệu này đến lớp giai điệu khác, miên man, trầm bổng nhưng vẫn đủ khiến ta tỉnh táo để trăn trở và suy tư.

Đã mấy chục năm trôi qua, trong dòng chảy văn chương cuộn xoáy, đôi người đã đến, đôi người rời đi. Nhưng Thạch Lam vẫn là một dấu ấn đặc biệt, nhẹ nhàng như bóng hoàng lan nhưng vẫn khiến tôi xáo động cõi lòng.

Tôi ước sao có thể ôm lấy cuộc sống một cách thắm thiết như anh, Thạch Lam ạ. Thật may, anh bảo luôn có hoàng lan cho những kẻ muốn nhìn chúng.

 Phan Thiên Di/VNCA

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm