- Lý luận - Phê bình
- “Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
VÕ ĐÀO PHƯƠNG TRÂM
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Nhà văn Nguyễn Thị Việt Nga
Một trong số những tác giả bén duyên với truyện văn học lịch sử là nhà văn Nguyễn Thị Việt Nga, chị sinh năm 1976, Tiến sĩ Ngữ Văn, nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Tỉnh Hải Dương; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tỉnh Hải Dương, hiện là Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn Đại biểu Quốc Hội Thành phố Hải Phòng.
Nhà văn Nguyễn Thị Việt Nga mang trong mình cốt cách quyết liệt, cá tính mạnh mẽ của nữ chính trị nghị trường pha lẫn nét mềm mại trong tâm hồn của người phụ nữ. Chị là một người trẻ tiên phong trên con đường gai góc, khám phá và đào sâu nền văn chương giai đoạn năm 1954-1975 về thân phận con người trong tiểu thuyết đô thị miền Nam. Từ sự bộc trực, nhiệt huyết và khả năng cảm thụ văn học sâu sắc, những tác phẩm truyện ngắn lịch sử của Nguyễn Thị Việt Nga cũng trở nên tinh tế, tròn đầy.
Với tập truyện lịch sử “Đêm trắng Thăng Long”, bao gồm truyện: Cánh ngỗng đỏ bay qua giếng ngọc; Quỳnh hương điện ngọc; Mây trắng Tràng An; Chuông chùa Chân Giáo; Nước cờ thế sự; Hoa nước mắt; Dư vang trong đá; Đêm trắng Thăng Long; Chuông ngân rừng trúc; Công chúa Ngọc Anh”. Đây là tập truyện giàu giá trị văn học nghệ thuật, khai thác chiều sâu rung động thông qua ngôn ngữ cảm xúc. “Công chúa Ngọc Anh” là một truyện tiêu biểu trong số đó.
Với phương châm “Lấy tác phẩm làm trọng tâm nghiên cứu”, là sự chồng xếp những lát cắt giữa hiện thực và giải thiêng, Nguyễn Thị Việt Nga đã đưa câu chuyện bi thương trở nên sống động với nhiều thông điệp ý nghĩa, chạm vào tầng sâu tâm thức người đọc.
Bằng lối dẫn dắt tinh tế, nhà văn đã tái hiện lại một công chúa Ngọc Anh với tâm lý phức tạp của khát vọng, hạnh phúc, mất mát, chia lìa. Nàng là một giai nhân tuyệt sắc, vẻ đẹp long lanh kiều diễm với đôi môi thắm như hoa yên chi, nhưng đằng sau vẻ đẹp đó là nỗi buồn sâu thẳm. Nàng vốn mang tấm lòng mộ Phật, sống ẩn mình với câu kinh tiếng kệ, vẫn tưởng cuộc đời công chúa đã an yên nơi cửa Phật nhưng rồi trong cơn binh biến, nàng đã phải trở lại Kinh thành nhưng lòng vẫn mong trở về chùa Đại Giác để cầu nguyện cho cha lấy lại cơ đồ.
Hình ảnh nàng lên kiệu khi bóng chiều tĩnh lặng, tiếng chuông Thiên Mụ đổ dài họa lên khung cảnh bi thương, trĩu nặng. Một vẻ đẹp pha lẫn nét u buồn trước nhân tình thế thái mà thân gái liễu nhi phải dãi dầu gió bụi. Thế nhưng đằng sau gánh nặng trăn trở quốc gia, còn một nỗi niềm khuất sâu trong lòng công chúa, khi nàng gặp gỡ, đàm đạo cùng Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành, để những ngơ ngẩn, thổn thức trong nàng bỗng nhiên trỗi dậy. Nỗi buồn xáo động tâm can khi công chúa đến yết bái Thiền sư ở chùa Thiên Mụ. Đây cũng là định mệnh mà nàng đã bước vào, như bước chân vào con đường bi kịch, để những thanh tịnh trầm an bỗng bị hất tung như mảnh rèm voan trong gió lạnh.
Và rồi nỗi bất an ấy ngày càng lớn dần, trở thành hệ trọng và u uất khi đức vua Minh Mạng khuyên nàng xuất giá. Mặt hoa ủ dột, lòng trĩu nặng không yên bởi người mà nàng nghĩ đến, mong được cùng chung gối mộng lại là một Thiền sư. Nỗi đau buồn dù chế ngự trong tâm nhưng thăm thẳm tựa non trùng, ủ ê như sóng cuộn. “Tiếng chuông trùm lên cảnh vật, vang mãi, vang mãi, qua đồi Hà Khê, qua núi Ngự Bình”, tiếng chuông như “khơi sâu vào nỗi lòng thổn thức” của nàng công chúa, khiến cho mày châu vóc ngọc phút chốc xanh xao.
Để rồi khi nhận ra mình đã mang khối tình trao cho vị Thiền sư nơi cửa Phật, oan trái bỗng chợt trùng trùng càng làm cho công chúa Ngọc Anh trở nên phiền não bội phần. Nỗi nhớ thương, mong mỏi khiến nàng mất đi an ổn. Thế nhưng thay vì nhận ra sai lầm, nàng lại ngày đêm theo đuổi mối tình vô vọng. Dù đã bị Thiền Sư từ chối khi nàng đến trong Chính điện nhưng nàng vẫn cứ say mê, trượt ngã trong phiền não. Chỉ cần nhìn thấy Thiền sư, nàng đã xao động tâm can. Chỉ cần chiếc áo cà sa của Người lướt qua, nàng đã thấy như bị thôi miên, đổ ngã. Mỗi khi nhắc đến Thiền sư, nàng lại như mê sảng. Nỗi nhớ mong tơ tưởng đã làm cho nàng bấn loạn gầy gò. Vì tình yêu mà nàng không nghĩ đến ranh giới giữa người tu sĩ và kẻ tục trần. Mối tình mù quáng, si mê ấy đã khiến nàng quên hết những điều tâm nguyện nơi cửa Phật, chỉ mong được Thiền sư đón nhận mối tương duyên. Nàng không còn nhận ra giới hạn và đạo lý cần phải giữ, chỉ mong mỏi được Thiền sư hồi đáp mối tình sâu nặng. Tình yêu của nàng ngập tràn bi lụy, đắm đuối đau thương bởi đáp lại nàng, chỉ là thái độ dửng dưng, lạnh nhạt và né tránh.
Tập truyện ngắn lịch sử “Đêm trắng Thăng Long” của nhà văn Nguyễn Thị Việt Nga
Không buông bỏ, không tỉnh thức, công chúa càng lúc càng dấn sâu vào mối tình hư mộng khi nàng cầu xin nhà vua tác hợp cho mình nên duyên cùng Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành, một mong muốn khiến ai nghe qua cũng phải kinh hoàng thảng thốt. Một nàng công chúa lại muốn nên duyên với một quốc sư, không những trái luân thường đạo lý mà còn mang tội với đời khi phá vỡ đường tu của người phạm hạnh.
Trong sự tuyệt vọng khôn cùng, nàng nghĩ rằng với oai lực của bậc quân vương sẽ làm cho Thiền sư phải tuân theo mệnh lệnh. Thế nhưng một lần nữa, công chúa Ngọc Anh phải đành thất vọng khi Thiền sư một mực giữ vững tâm nguyện tu hành. Sự cương nghị, vững như núi Tu Di của Người đã làm cho nàng vô cùng đau khổ. Nàng như một người mất trí, cứ khóc than, mê sảng. Ngày qua ngày, thân ngọc héo hon, sắc ngọc bơ phờ như hoa tàn, liễu úa. Trong mắt nàng, lầu son gác tía không đổi được một ánh mắt ấm của Thiền Sư, vạn người cung kính cũng không bằng một lần Thiền sư xuất hiện. Trong lòng nàng chỉ có bóng Thiền sư, tâm trí nàng chỉ có mỗi Thiền sư là lẽ sống.
Và rồi, nàng càng trở nên u ảm khi Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành rời chùa Thiên Mụ ra đi, để giữ một đời sống Đạo.
Gạt bỏ mọi lời khuyên nhủ của cung nữ Xuân Lan, phớt lờ mọi lời tác hợp với các vương tôn công tử, lòng Ngọc Anh chỉ tơ tưởng, nhung nhớ Thiền sư, mặc cho Người đã rời xa cách biệt. Trong tuyệt vọng, nàng quyết thân chinh gót ngọc để tìm đến nơi trú ngụ của Thiền sư, cho thỏa lòng thương nhớ. Tình yêu của công chúa Ngọc Anh như một ngọn lửa, như dòng nước xoáy, trỗi dậy ào ạt và mãnh liệt. Khi diện kiến Thiền sư nơi chùa Từ Ân, như từ vô lượng kiếp, cảm xúc trong nàng trỗi dậy, ánh mắt nàng như nước hồ thu, vừa rực sáng vừa long lanh ngấn lệ. Nàng bỏ xuống thân thế hoàng gia để làm một người bình thường với ước nguyện được yêu thương như bao người khác. Nàng đau khổ, van xin, dại khờ, trách cứ…nhưng rồi những gì nàng nhận được vẫn chỉ là sự thờ ơ, từ chối của Thiền sư.
Nàng quỳ trong im lặng, một hình ảnh làm lay động lòng người, vừa thương cảm xót xa, vừa lắc đầu tiếc nuối, bởi đó là sự mù quáng, mê lầm của con người trong thế giới ba sinh, là tình yêu mê cuồng, bi lụy. Chỉ vì yêu mà con người có thể mang hết lòng dạ để sống chết với tình mà không phân biệt đúng sai, tội lỗi.
Nàng khóc cạn nước mắt nhưng Thiền sư vẫn bình thản quay đi. Người về chùa Đại Giác để né tránh sự luyến lưu từ công chúa. Trong chút hy vọng cuối cùng, công chúa đã đến tìm người và van xin Thiền sư cho nàng được nắm lấy bàn tay, như chiếc phao cứu sinh cho người sắp đuối. Nàng chỉ mong được nhìn thấy bàn tay người nàng yêu thương, chỉ bấy nhiêu đó cũng đủ để nàng thỏa lòng ước nguyện. Và khi Thiền sư đưa tay ra, như một đóa hoa sen, nàng đã nắm lấy tay Người, “vừa hôn vừa khóc như mưa”.
Tình yêu của công chúa dành cho Thiền sư không có gì cưỡng lại bởi trong lòng công chúa, Người là liều thuốc hồi sinh mà cũng là thuốc độc, chỉ một hình ảnh của Người cũng có thể làm nàng vỡ tan hay sống dậy. Thế nhưng điều đắng cay oan nghiệt không dừng lại ở đó mà nó đã đi đến một kết cục bi thương, khi Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành tự thiêu thân trong lửa đỏ. Ngọn lửa kết thúc mối tình oan nghiệt của công chúa Ngọc Anh và giữ trọn đức hạnh của Người. Thiền sư ra đi, Ngọc Anh mới thảng thốt nhận ra, trong đau đớn và hối hận, nàng như một kẻ mất hồn, lạc lõng giữa u buồn, đổ nát. Nàng chỉ còn lại một mình đơn độc, xung quanh nàng mọi thứ trở thành vô nghĩa khi người nàng yêu thương không còn ở trên đời. Sau khi lo hậu sự cho Thiền sư tại chùa Đại Giác, Ngọc Anh đã uống thuốc độc quyên sinh để kết thúc mối tình oan nghiệt.
Bằng ngòi bút tài hoa, nhà văn Nguyễn Thị Việt Nga đã kể lại câu chuyện tình bi thương, dằn vặt của một nàng công chúa với hình ảnh tả thực đầy mỹ cảm. Bút pháp mềm mại và lời văn bay bổng, mượt mà, từng mạch truyện được phác họa thâm trầm, liền mạch và sống động, toát lên sự dữ dội trong tình yêu của nàng công chúa. Một tình yêu giữa thế giới tục trần, miên viễn với say đắm, si mê, chấp ngã, tận cùng, để rồi cứ phải trôi lăn trong nỗi đau của tan hợp và hoại diệt.
Đối lập với công chúa Ngọc Anh, người ta lại nhìn thấy một vị Thiền sư tĩnh lặng như sơn mộc. Giữa bể khổ vô thường, Người vẫn giữ cho mình một lòng an nhiên tự tại, khước từ mọi cám dỗ hồng trần, nương về cõi Phật. Trong mắt Người, những danh vọng, tài sắc như bọt nước thoáng qua, không thể đánh động lòng người mộ đạo. Sự kiên định của Thiền sư khi công chúa Ngọc Anh đến chùa Thiên Mụ, mặc cho công chúa thẫn thờ, ngưỡng mộ, Người vẫn giữ lòng không động, lặng im.
Trái tim đa sầu đa cảm của công chúa Ngọc Anh như gió va vào núi. Người chỉ đáp lại bằng sự điềm nhiên và lặng lẽ, kiên cố hành trì chính niệm trước ủy mị tư tình. Nhưng càng xa cách và viễn ly ái dục, xem những lời than thở, vật vã của Ngọc Anh như gió bụi thoáng qua thì càng làm cho nàng trở nên sầu thương và khó dứt. Trước tình cảnh đó, Thiền sư chỉ lẳng lặng quay đi, sự im lặng của Người như bức tường thành vững chãi, như hoa sen trắng giữa bùn lầy. Khi hay tin sư phụ của Thiền sư là Hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc, trụ trì chùa Từ Ân viên tịch, Người đã nhân dịp này rời khỏi chùa Thiên Mụ, một chuyến đi để dứt trừ sợi dây luyến ái vô minh mà Ngọc Anh đang cố tình buộc chặt. Người đi để giữ trọn đạo tu hành, rời xa phù hư ảo ảnh để sống đời tỉnh giác.
Ảnh minh họa.
Trái ngược với những héo hon sầu khổ của công chúa Ngọc Anh, con đường của Thiền sư hướng đến là bình an và vô nguyện. Người chỉ mong một đời thành tựu theo chính pháp. Ánh mắt Người luôn hướng đến chúng sinh chứ không đặt ở cung hoàng điện ngọc.
Nhưng Thiền sư cũng là một con người, đứng trước nỗi đau bám riết và tình yêu vô bờ bến của công chúa Ngọc Anh, Người đã không thể lạnh lùng để nhìn số phận của nàng ngụp lặn trong bể khổ. Khi bàn tay Người đưa ra như lòng từ bi để cứu vớt sự sống cho công chúa, để rồi sau đó, Thiền sư đã chọn cho mình con đường tự thiêu để giữ tròn tâm Đạo. Khi Tịnh Thất chìm trong lửa đỏ, người ta đã đọc được một bài kệ của Thiền sư trên vách gỗ:
THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chân như huyễn
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần
Bài thơ như khép lại cuộc đời một Thiền sư tài năng đức độ mà cũng mở ra cánh cửa giải thoát cho một bậc tu hành không còn sa vào những cám dỗ nơi trần thế. Người đã rũ bỏ thân xác tục phàm để về cõi an nhiên, xem trần gian là cõi tạm. Trong lửa đỏ, Người không lưu luyến, không sợ hãi, bước qua thế giới vô thường với tâm không vẩn đục. Câu chuyện đã đưa đến cao trào cảm xúc khi biết rằng Thiền sư đã chọn con đường tịch diệt bằng cách hỏa thiêu. Và những câu hỏi được đặt ra: “Phải chăng công chúa Ngọc Anh đã đẩy nhà sư đến tận cùng lựa chọn?”, “Phải chăng vì tình yêu mù quáng của nàng đã khiến nhà sư hỏa thiêu nhục thể?”. Những nỗi tiếc thương, dằn vặt pha lẫn chút trách hờn, day dứt…nhen nhúm trong lòng người đọc vì không làm chủ được lòng mình mà nàng đã gây ra tội lỗi, dẫn đến số phận nghiệt ngã cho mình và kinh động con đường hạnh nguyện của Thiền sư.
Bằng ngôn từ hài hòa uyển chuyển, “Công chúa Ngọc Anh” là một tác phẩm mang vẻ đẹp liễu tri huyễn mộng, là hơi thở cuộn trào trong khát vọng tồn sinh đầy ngổn ngang tự sự, là tuyệt vọng, si mê. Từng cánh hoa, chiếc lá cũng chở đầy ưu tư, da diết. Công chúa Ngọc Anh như hiện thân của con người ở kiếp lao trầm, lặn ngụp trong yêu đương mộng mị, nàng chưa thể vượt qua ngưỡng ái tình, chưa đủ tĩnh tâm để thoát khỏi vòng tục lụy nên phải mang một kết cục bi thương.
Nếu công chúa Ngọc Anh là một khía cạnh của si mê, mù mịt thì hình ảnh của Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành lại hiện lên như sự minh triết an trầm, nhắc nhở chúng ta cần quán thân bất tịnh, tỉnh táo để nhận ra hư ảo của tình yêu, sẽ phần nào làm cho con người bớt đi niềm luyến ái. Câu chuyện như một lời cảnh tỉnh: “Ái tình là điều khiến con người dễ lầm đường lạc lối”, vì yêu cái đẹp của Thiền sư mà bất chấp khổ đau, để rồi khi vướng vào vòng si mê thì không thể thoát ra, khó lòng buông bỏ và sáng suốt.
Dù có ý kiến cho rằng công chúa Ngọc Anh và mối tình với Thiền sư Liễu Đạt Thiệt Thành chỉ là câu chuyện hư cấu, tuy nhiên nếu chỉ dựa trên trí tưởng tượng thì “Công chúa Ngọc Anh” vẫn là một tác phẩm giàu triết lý nhân sinh. Truyện đề cao giá trị của đời sống tinh thần tín ngưỡng và sự sâu dày trong tầng thức. Kiến tạo tư duy đổi mới lịch sử thông qua văn học bằng cách tìm kiếm sức nặng của tri thức trong cội nguồn truyền thống.
Bằng giọng văn riêng biệt, sâu sắc và lắng đọng, tác giả đã làm nổi bật hình ảnh công chúa Ngọc Anh với vẻ ngoài mềm yếu nhưng lại sẵn sàng bứt phá gia phong để tìm đến tình yêu. Nó làm trỗi dậy thao thức và ngẫm ngợi cái khôn cùng, sợ hãi, chông chênh đến ngờ vực, như hành trình đồng niệm nỗi đau khi bị khước từ, lạnh nhạt. Nguyễn Thị Việt Nga đã phô bày niềm sùng bái, ngưỡng mộ, suy tư đầy ngổn ngang trăn trở của một kiếp người. Tất cả đan xen vào nhau để tạo thành một vòng tròn luân hồi không kết dứt.
“Công chúa Ngọc Anh” của nhà văn Nguyễn Thị Việt Nga là một tác phẩm văn học hội tụ đầy đủ tính nghệ thuật xã hội, nghệ thuật lịch sử với cấu trúc ngôn ngữ tổng quan, từ đó thể hiện được tính thi pháp nội sinh đầy sáng tạo. Những bối cảnh đẹp lay động lòng người được lột tả qua từng câu từ tinh tế, vừa mỏng manh mềm mại, vừa luồn sâu vào những trăn trở, mãnh liệt, cô đơn, nơi giới hạn giữa tình yêu và lễ giáo. Và Thiền sư như biểu tượng của sự tĩnh lặng giữa vô thường, nơi cái đẹp đến từ thanh tịnh và giải thoát. Câu chuyện mang thông điệp sâu sắc về triết học Phật giáo, nhấn mạnh tầm quan trọng của tỉnh thức trong ngũ dục lục trần, giữa mê và ngộ để không phải rơi vào nghịch cảnh đắng cay. Hành động quyên sinh của công chúa Ngọc Anh là tận cùng oan nghiệt, là kết quả từ nỗi si mê, vì nỗi si mê này mà dẫn đến kết cuộc đầy bi kịch.
Sử dụng khả năng cảm thụ nghệ thuật sâu dày, vốn từ phong phú, nhà văn Nguyễn Thị Việt Nga đã biến chữ trở thành chất liệu để khâm liệm, là dòng chảy để tái sinh, kiến tạo qua không gian thị giác, buộc người đọc phải dừng lại và chiêm nghiệm. Truyện lịch sử của Nguyễn Thị Việt Nga thoát ra khỏi ranh giới của cũ kỹ đơn điệu, không cứng nhắc khô khan, cũng không cầu kỳ phức tạp mà là sự đan xen vừa đủ giữa cấu trúc “Mô tả, trần thuật, đối thoại, trữ tình”. Đặc điểm nhìn vào bên trong nhân vật để tái hiện quá khứ một cách đa thanh, là một cách vận hành hữu sinh, nơi con chữ luôn chắt lọc và dao động. Chú trọng khai thác thủ pháp biểu đạt nội tâm, giàu mỹ học, mang cái đẹp của một trí thức dấn thân, Nguyễn Thị Việt Nga đã đưa lịch sử trở thành câu chuyện gần gũi và đồng điệu, khai phá tính duy mỹ chuyên sâu của người sáng tác.
V.Đ.P.T