TIN TỨC

Dù đi bất cứ nơi nào, tôi vẫn lang thang trên đường Cầu Đất

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-08-03 07:16:25
mail facebook google pos stwis
1569 lượt xem

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI

"Tôi không được học hành nhiều, không có điều kiện thành nhà thơ. Dù tôi biết mình ba vạ bát nháo, nhưng tôi có bản gốc thi sĩ".

Đang định lén ngắm rồi “bắt quả tang” Thanh Tùng đang làm... người giữ xe cho một tiệm (của con anh) trong cái ngõ đường Phạm Ngọc Thạch - Sài Gòn thì anh phát hiện tôi trước, kêu ầm lên: “Bà khôn quá. Đất nước này bao nhiêu chỗ ngon bà chiếm lĩnh, mấy ông hay bà viết sạch.

Bọn loi choi đại học báo chí với tiến sĩ bây giờ viết gì? Mười năm nữa thôi là nó biết gì đám văn nghệ sĩ này nữa mà viết...”.

Vừa loay hoay chỉ chỗ để xe cho khách anh vừa nói oang oang, chả ý tứ gì. Xong việc ngoài cửa, anh mời tôi vào bàn tiếp khách, thật ra là cái bàn sát cửa để anh còn ngó ra trông xe, rồi chép miệng: “Mà thôi. Thời thế nào, tôi thấy bà vẫn chăm chỉ làm việc của bà là được”.

(Phải nói tí “lịch sử” để hiểu vì sao chúng tôi ăn nói với nhau kiểu bè bạn này: Dù ít gặp nhưng biết nhau từ khi còn trẻ, thời bắt đầu say văn thơ viết lách ở Hải Phòng trong sáng và bom đạn. Hơn nữa, thời kỳ ở Hải Phòng, cả nhà tôi thấy anh đến là... hết vía.

Vì Thanh Tùng chơi thân, trong nhóm “đàn đúm” với người anh cả của tôi. Anh tôi là câu chuyện điển hình về một người thông minh, hiền hậu nhưng đã bị rượu hủy hoại cả cuộc sống).

  • Ông lang thang đi như ngựa, giờ trông xe một chỗ có buồn không?

Con thuê. Nó là giám đốc công ty. Từ chỗ khố rách áo ôm mà nó vào đây làm ăn giỏi, mua được nhà 12 tỉ đồng. Nói cho bà biết, tôi ăn tàn phá hại. Bà uống nước đi. Tôi không nước chỉ rượu. Bỏ uống sao làm được việc.

Bà hỏi về thời Hải Phòng à? Chả biết bà quê đâu, tôi Nam Định ra Hải Phòng năm 1954-1955. Hải Phòng với tôi đặc biệt lắm, nơi đẻ ra thơ. Tức là cấy vào đất tâm hồn anh, mọc lên hoa lá là thơ. Tôi cũng như bà, yêu Hải Phòng là đúng. Con người cùng quẫn lao động cực nhọc. Dạo vào đây kiếm sống không nhớ Nam Định. Nhớ Hải Phòng. Tôi đã bón đất Hải Phòng bằng mồ hôi tôi.

Tôi từng đào hồ quanh Quần Ngựa từ lớp 10 đi lao động, bốc vác cảng, thợ sắt đóng tàu không số, đẩy xe goòng than cho nhà máy điện, bốc vác ximăng. Tôi làm qua hầu như tất cả nhà máy Hải Phòng, thủy tinh, cơ khí kiến thiết... Bà yên trí uống nước đi, đừng đá đổ chai rượu của tôi để dưới chân ghế bà.

Gắn bó lao động, hằng ngày nhớ thương là đúng. Nhớ Hải Phòng sau trận bom, tôi đi bới cứu người bị vùi dưới nhà đổ, xe chở kìn kìn suốt đêm máu chảy. Dù mai đây đi bất cứ nơi nào, tôi vẫn như đang lang thang trên phố Cầu Đất.

  • Ông nói ông bón mồ hôi rồi nở ra cái gì?

Hồi đó có Văn học công nhân do Hội Nhà văn mở. Tôi không đảng viên, ông già tôi “phu lít” giàu có Nam Định, ai cho vào. Đại học cũng không được. Cái thời 1958-1959 nó thi lý lịch chứ không học. Đi làm công nhân kiếm sống và từ thực tế đó sáng tác.

Hai lần giải nhất của Tổng Công đoàn và Hội Nhà văn. Hồi đó cỡ Xuân Diệu chấm chứ không như bây giờ. Chế Lan Viên, Tô Hoài, Kim Lân thì chấm văn. Vừa lao động vừa viết nó vất vả thế nào. Chiến tranh đầu mình bom đạn, lên ụ súng nóc nhà bắn máy bay. Lúc ấy 30 tuổi là cùng, sao không tham gia? Giấy không có, báo động đêm không dám bật đèn, nhiều bài thơ viết trong bóng tối. Đi làm xé giấy bao ximăng cho túi mẩu bút chì, có khi gạch viết lên miếng tôn. Chở gạch xây nhà, mẩu gạch viết lên tấm gỗ hậu xe bò.

Bà hỏi không sợ vứt thơ vung vãi khắp nơi sao? Thì mất nhiều chứ. Nhưng nhớ được. Có lúc vừa đi vừa lẩm bẩm, chứ tôi không ngồi kỳ công. Ngay bây giờ cũng vừa làm thơ vừa... để ý trông xe.

  • Thì xuất thần vậy mới là thơ hay. Khổ thế ông không thấy nản à mà còn say sưa?

“Chả biết là gì nhưng vất vả lắm. Trong người tôi nó có một nhà thơ rồi. Bị làm. Nếu tôi có là người Mỹ hay Pháp, chắc vẫn làm, đó là số mệnh. Dám chiến đấu vượt khó khăn như thế chứ, khổ thế vẫn mơ mộng được. Có mơ mộng mới gọi là thơ. Từ sự thật cất lên nhưng phải mơ mộng.

Tôi đầm mình trong sự thật của công nghiệp, có chiến tranh, vừa máu xương vừa mồ hôi. Anh ở đất nước này. Hải Phòng trung dũng kiên cường, thơ phải thế nào. Mỗi ngày có lúc 1, 2 trận bom, từ hạm đội 7 của chúng nó vào, lúc về còn thừa chưa hết bom nó cũng thả.

Thơ, văn chương lúc đó khó khăn, có giá trị. Đêm đêm khuya vắng, đài có “Tiếng thơ” bà Tuyết ngâm (NSND Trần Thị Tuyết), có đêm đói lả, nghe mà lấy lại tinh thần. Ít ra phải đánh giá người làm văn học chiến tranh chứ đừng kiểu không cần biết chúng mày là ai.

Tôi khó khăn, mẹ mất, thằng em điên, phải về “lấy tiền một lần” rồi cứ như người chưa từng tham gia gì, không có lương bổng. “Một cục” đợt đầu được ít lắm, đó là năm 1990, lúc tôi 55 tuổi rồi. Sống bằng gì hả? Hai con. Ra vỉa hè thu mua băng cassette. Công an tịch thu vì Luật bản quyền gì đó. Sang băng nhạc vàng.

Trường ca Hải Phòng đã có 200 câu rồi, Vào Sài Gòn, tôi vẫn ủ mưu viết một cái Trường ca Phương Nam. Đã được mấy trăm câu, để đấy vì chưa đi hết được nơi muốn đi.

  • Nghe ông nói từ lâu mà chưa xong cơ à?

Cứ muốn thêm, mà chưa đi được. Vào cái việc này, con kinh doanh, tôi quản lý, nhân viên hỏi kho, dụng cụ spa, nguyên liệu, kem... không có người lo không được. Tôi phụ với cậu bảo vệ trông xe khi nó phải chạy việc. Thèm đi lắm, nhưng bây giờ có cho đi cũng chịu. Không có quản lý không được.

Ối giời, bà hỏi tổng cộng tác phẩm ấy à, tôi ứng tác nữa sao nhớ hết? Mà nhớ làm gì, mình làm cho mình. Thì đồng ý với bà, tôi nói về Thời hoa đỏ vậy. Nó là một tác phẩm lãng mạn hoàn toàn, không nói chiến tranh yêu nước, chỉ là tình yêu trai gái. Ngày ấy nó thế, những chuyện chiến đấu sản xuất đưa vào thơ thiên hạ cũng thích, hợp với cuộc sống lúc đó (“Tôi ôm em và ôm cả cây súng của em” - Nguyễn Đình Thi). Tình yêu đơn thuần hầu như không có.

Thời hoa đỏ được người ta thích vì đó là tình yêu lãng mạn bị dồn nén vắng bóng lâu ngày, bay bổng vượt trên đời sống. Khi yêu bất kể khó khăn, tình yêu là hiến dâng, không được thua gì cả, chỉ là yêu nhau. Tôi viết nó những năm bom đạn nhất, tự “biên tập” vì thấy chắc không ai in, bỏ ngăn kéo. Hằng ngày vẫn đi quai búa.

  • Được rồi, giờ ông nghe tôi đọc nhé: “Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao - Anh nắm tay em dọc con đường vắng... Mỗi mùa hoa đỏ về - Hoa như mưa rơi rơi - cánh mỏng manh tan tác đỏ tươi - như máu ứa một thời tuổi trẻ... Anh đâu buồn mà chỉ tiếc - Em không đi hết những ngày đắm say...”. Ông Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc nhỉ?

Bà nên nhớ tôi là lãng mạn ảnh hưởng Pháp, học tiếng Pháp từ bé. Thơ Pháp nhất thế giới, thời lãng mạn nó hay lắm. Siêu thực, hậu hiện đại nọ kia là thời nó ghét thơ rồi. Thời lãng mạn nó ghê lắm.

Ông Phạm Ngọc Cảnh “giữ gôn” trang thơ Văn Nghệ Quân Đội thời đó. Về nhà tôi chơi, đọc bài tôi bỏ ngăn kéo. Là thi sĩ nên ông nhiệt huyết, lên tàu đi Hà Nội còn bỏ xuống để chép bài thơ đem in. Như một tiếng nổ. Không ai làm gì tôi cả. Ông Cảnh bị ra khỏi ban Thơ. Ông là bộ đội, lại về với kịch chèo, sau xuất bản in bài thơ đó trong tập 99 bài thơ tình. Ông Đình Bảng theo dòng chèo, sang Nga học, ông ấy phổ nhạc.

Mà bà hỏi nếu cho chọn thơ mình thì tôi chọn bài nào hả? Hoàng Cầm nhiều lắm nhưng tôi chọn Về Kinh Bắc. Đấy mới là thơ. Nhiều câu hay ngang Kiều. Ông ấy làm thơ hay vào loại nhất nước mình. Còn thơ tôi, tôi không chọn cái gì, dù bạn bè nhiều lắm, có lần nghe giới thiệu đây nhà thơ “Thời hoa đỏ”, người xung quanh như... bị điện giật. Không phải khiêm tốn đâu. Đời tôi tạm vẽ ra là vào Hội Nhà văn vì là công nhân làm thơ.

Tôi không được học hành nhiều, không có điều kiện thành nhà thơ. Dù tôi biết mình ba vạ bát nháo, nhưng tôi có bản gốc thi sĩ. Một lần gặp Xuân Diệu, tôi đọc ông nghe câu thơ tả cô thợ sơn: “Ngực đầy như tương lai / Quét nắng lên thân tàu”, ông khen “cậu có dáng dấp thi sĩ”. Thời ấy được cỡ Xuân Diệu khen câu thế là ghê lắm, những năm 1970. Dạo tôi quản lý quán rượu Văn ở Hải Phòng, chỉ trí thức đến uống vì vào đấy mới hợp chuyện. Tôi chơi với ông anh bà ở đấy.

  • Những gì tôi biết về ông: kẻ lang thang, đàn đúm, rượu chè phát sợ. Có nhất thiết phải vô kỷ luật thế mới ra thơ không, sao nhiều ông làm ra lập dị phát gớm? Ông nói coi!

Tôi làm gì mà bà bảo tôi vô kỷ luật? Cẩn thận và nghiêm túc, chưa bao giờ bị ai chê nhá. Làm một bài thơ trọn vẹn phải tính kỷ luật cao. Phải hay. Mà hay thì khổ lắm, tính toán chữ nghĩa cẩn thận.

Bà biết niêm luật của thơ Đường chứ gì? Ghê thế mà cũng chỉ còn vài trăm bài sống còn lại. Mà đâu như... kiểm toán được. Chúng ta có Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan... - những người có thiên bẩm thi sĩ, chứ ai ngồi tính mà ra được những câu “Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”... Vốn ngôn ngữ phải siêu, vì chữ trong thơ còn hơn cả sự chính xác. Thơ không có chữ nữa là thôi.

  • Ông yêu Sài Gòn thế nào?

Úi giời. Sài Gòn sao không thích? Nó chỉ thiếu một cái lạnh thôi. Tôi thích Sài Gòn tự do. Trong trường ca, tôi viết “Gió tự do thổi rộng mặt đường / Nắng vắt ra từ trái xoài thơm”. Con người không soi mói, khó chịu, hồn nhiên dễ tin. Đáng yêu lắm.

  • Giờ đến lúc hỏi riêng tư đây này: cuộc sống ông thế nào? Ông cưới mấy lần, nay còn ở với bà nào không?

Ba bà vợ, giờ không còn ở với bà nào. Một thi sĩ lãng mạn, bám vào con. Bà cũng biết thời đại này dù con có hiếu, người ta cũng không thể nuôi được nhau. Nuôi đây không phải là cơm. Nuôi phần hồn mới nặng.

Nhu cầu con người ghê gớm miên man, siêu thị triệu mặt hàng cũng không đủ. Nhà của con 5 tầng, đàng hoàng tử tế, mà tôi lại muốn mình vạ vật nằm đường như Cao Minh Trai để sinh ra thơ (Cao Minh Trai là bạn thơ Hải Phòng của chúng tôi, say thơ say rượu không thiết gì tiền bạc, sống vạ vật đến lúc mất).

Thôi bà đừng đòi đi về vội. Nghe tôi đọc một bài về Hải Phòng cho bà nghe. Bài Hải Phòng lúc ra đi.

Mai tôi đi rồi

tôi có khóc đâu mà gió ướt

Mà nắng rát lên tôi mặn chát

Mai tôi đi rồi

Để lại đây tiếng búa

Khắc vào hồn phố...”.

Người ta sẽ hát Thời hoa đỏ được bao lâu nữa? Anh có là nhân vật gì ghê gớm để nổi tiếng trong xã hội không có trí nhớ này? Tôi không quan tâm. Bởi biết đó không chỉ là chuyện thơ văn, bao nhiêu người vĩ đại rồi cũng chịu quên lãng.

Cũng không phải chuyện giới showbiz đầy nhố nhăng nổi đó chìm đó. Anh là dấu ấn Hải Phòng lam lũ, can đảm và tài hoa say đắm một thời, dù bây giờ cũng là một thành phố chẳng thiếu chi mọi chuyện, nhiều hoa khôi hoa hậu, dù có thời báo chí nước ngoài gọi nó là “thành phố bị... bỏ quên trong Mở cửa”.

Anh là tính cách người độc đáo, là câu chuyện vật lộn sống đủ khổ mà không mất say mê cao đẹp... máu ứa một thời tuổi trẻ, như màu phượng đỏ. Thế chẳng đủ để ta yêu và tiếc mãi sao?

Thanh Tùng mất ở tuổi 83 (tháng 9-2017), tôi không đến kịp tiễn đưa anh. Nhưng trong âm thầm nhớ bạn bè, tôi luôn nghĩ Thanh Tùng chẳng thể đi đâu. Anh đã đạt được ước mơ như Cao Minh Trai. Và đám thi nhân điên dại ấy cùng ông anh tôi vẫn mãi bên nhau lang thang trên phố Cầu Đất

Nguồn: https://tuoitre.vn/
____________

Mời nghe ca khúc THỜI HOA ĐỎ
 

Thơ:  Thanh Tùng

Nhạc: Nguyễn Đình Bảng

Thể hiện: Nguyễn Lê Trung

Clip: Nguyên Hùng.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhớ anh Mai Quốc Liên
Bài viết của nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Nhà văn Trầm Hương: Sứ mạng nhà văn là đi tìm những ẩn số
Hàng chục năm nay, nhà văn Trầm Hương (Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM) vẫn âm thầm theo dấu chân những anh hùng, người lính, mẹ liệt sĩ… để tìm nhân vật cho những trang sách của mình. Chị ghi dấu ấn đậm nét trong dòng văn học cách mạng hiện nay.
Xem thêm
Thương nhớ anh Duy
Tôi viết ra đây mấy lời tâm sự như thắp một nén nhang kính nhớ thương tiễn anh Duy về trời cùng đàn anh Lê Văn Thảo...
Xem thêm
Nhà văn Ann Patchett: Thời gian tuyệt vời nhất là ở trên máy chạy bộ và viết sách
Ann Patchett là nhà văn Mĩ, tác giả của 9 cuốn tiểu thuyết, 4 cuốn sách phi hư cấu và 2 cuốn sách dành cho trẻ em. Trong văn nghiệp, bà từng giành giải Orange cho Bel Canto, cũng như lọt vào danh sách chung khảo giải Pulitzer 2020 với cuốn Ngôi nhà của người Hà Lan. Gần đây bà đã cho ra mắt cuốn tiểu thuyết mới mang tên Tom Lake, và điều đặc biệt là nó được viết trên bàn đặt trên máy chạy bộ và lời khuyên về năng suất từ ​​Elizabeth Gilbert.
Xem thêm
Lê Minh Quốc và cuộc hành trình chữ nghĩa
Bài của nhà thơ Ngô Xuân Hội trên báo Văn nghệ.
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Thành Phong: Với chữ nghĩa, tôi như người đang yêu
Gọi Nguyễn Thành Phong là nhà thơ, nhà văn, biên kịch hay cái danh mà mang nhiều nghiệp nợ nhất là nhà báo, thì viết gì, dù là kiếm sống, anh cũng phải cố ở mức tốt nhất theo ý mình thì mới cho là được. Với chữ nghĩa, Nguyễn Thành Phong ví anh như người đang yêu, càng bị “ruồng rẫy”, càng thấy không thể bỏ cuộc.
Xem thêm
Vũ Cao - “Núi Đôi mãi mãi vẫn là Núi Đôi”
Nói đến nhà thơ Vũ Cao không thể không nói tới bài thơ Núi Đôi.
Xem thêm
Chính Hữu – Nhà thơ của các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô
Với bài thơ Đồng chí (1948), nhà thơ Chính Hữu đã tạo một dấu ấn sâu sắc về vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp.
Xem thêm
Mừng tuổi lúa | Ngô Xuân Hội
Nguồn: Tuần báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Lê Văn Thảo – “Ông cá hô” làng văn
Nguồn: Báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư: “Tôi sợ chữ nghĩa của mình là vô ích”
5 năm sau Cố định một đám mây, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư tái ngộ độc giả với tập truyện ngắn mang cái tên cô đọng và đầy sức gợi: Trôi. Dịp này, chị dành cho phóng viên một cuộc chia sẻ. Vẫn là Nguyễn Ngọc Tư với phong thái được nhiều độc giả yêu mến: chân thành, giản dị, khiêm cung và sâu lắng.
Xem thêm
Nhà văn Mai Sơn lặng lẽ cùng ‘Sự quyến rũ của chữ’
Nhà văn, dịch giả Mai Sơn sinh năm 1956 tại Quảng Ngãi, sống và làm việc ở TP.HCM. Ông có hơn 30 năm sống bằng nghề viết văn, dịch và biên tập sách báo. Vì bạo bệnh, ông đã qua đời lúc 0h ngày 25.12.2023 tại nhà riêng ở Long An hưởng thọ 68 tuổi. Tưởng nhớ nhà văn Mai Sơn, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà văn Trần Nhã Thụy về ông.
Xem thêm
Phần chìm của tảng băng trôi
Nguồn: Báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Thơ “nhật ký” của một người lính
Bài đăng Thời báo Văn học - Nghệ thuật
Xem thêm
Dịch giả, shipper nói tiếng Pháp nhận tin vui lớn
Dịch giả Huỳnh Hữu Phước, chàng shipper nói tiếng Pháp trên đường sách Nguyễn Văn Bình, TP.HCM mới đón nhận tin vui lớn.
Xem thêm
Nhà văn chiến sĩ – trường hợp Nguyễn Đức Mậu
Bài viết của nhà Lý luận phê bình văn học Ngô Vĩnh Bình...
Xem thêm