TIN TỨC

“Giấc mơ của một loài cỏ” xanh đầy hồn tôi

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-10-18 00:08:25
mail facebook google pos stwis
1457 lượt xem

Nhân đọc tập thơ Giấc mơ của một loài cỏ của Thèn Hương

Thèn Hương – một nhà thơ dân tộc Nùng ở Tuyên Quang, là cái tên rất mới trong giới cầm bút hiện nay, cô vừa cho ra đời tập thơ – trường ca đầu tiên mang tên Giấc mơ của một loài cỏ (Nxb Hội Nhà văn, 8.2023). Đây là thi tập giàu nội hàm văn hóa và cách triển khai gợi nên nhiều ấn tượng với độc giả. Với chủ thể là Cỏ – Giấc mơ của cỏ, cô đã hình tượng hóa mang số phận con người, mà cụ thể là những cô bé vùng cao với nhiều sắc tộc Kinh, Tày, Mông, Dao, Pà Thẻn, Sán Dìu… đã sống, đã tồn tại, đã ước mơ, đã thất bại, đã yêu thương như thế nào trên các bản làng miền núi phía Bắc sương giăng và núi đá.  

Tập thơ – trường ca Giấc mơ của một loài cỏ

Thèn Hương tên thật là Thèn Thị Hương, sinh 1983, cô mang dòng máu của Tày và Nùng, lớn lên theo đường Then và tiếng đàn tính trên đất Tuyên Quang với nhiều ngọn núi cao, có sông Lô và sông Gâm uốn lượn, với hồ Nà Hang, thác Mơ,… tất cả đã tạo nên một giọng thơ dường như khác biệt với người viết hiện tại dù là miền xuôi hay miền núi nơi cô đang sống.

Giấc mơ của một loài cỏ gồm 44 bài được viết bằng thể tự do, dài ngắn đan xen, phóng khoáng và hồ hởi vui buồn, câu ngắn nhất 01 chữ, câu dài nhất 48 chữ. Tập thơ được chia làm 03 phần: Tam tấu tôi – Giấc mơ của một loài cỏ – Thổ cẩm về xuôi, mỗi phần được sắp xếp đầy dụng ý và nhiều công phu của tác giả.

Mở đầu thi tập, Thèn Hương chưa vội bàn đến Cỏ, mà như để có một nền tảng, cô đã tách mình ra “Tam tấu tôi”. Thoạt nghe như có phần lý tính khi cô tự chia bản thân thành ba phần, với định lượng, tính rõ ràng, nhưng chưa hẳn thế, ta hãy nghe tiết tấu nào được “thổi lửa” đầu tiên đã: Tôi luôn nặng trĩu/ nhà tôi rộng nhưng lòng tôi chật hẹp/ xe tôi nhanh mà ý nghĩ rùa bò/ trang sức không làm tôi lấp lánh/ hồn tôi đầy ngõ tối quanh co// tôi muốn xóa bỏ tôi của ngày hôm qua/ tôi cần phiên bản mới… (Tôi và giọng nói nhỏ) - Đấy là một xác quyết ngay những chữ đầu tiên mà Thèn Hương đã dùng để mở ra một giấc mơ. Và không thể khác hơn, làm mới mình là khao khát muôn đời của người mang lòng sáng tạo, cho dù sự sáng tạo đó bằng cách này hay cách khác đều bắt đầu bằng nhu cầu tự làm mới mình. Và như hiểu rõ điều đó, thi sĩ của chúng ta tiếp diễn cuộc “hành hương về phía mình”, cô muốn hiểu bản thân từ những tiếng khóc đầu đời đến hơi thở hiện tại, cô đã “Trở lại trinh nguyên” trong tiết tấu thứ hai như sau: Em lách qua khe cửa hẹp giữa hai mùa đông, xuân/ cất cuộc tình buồn dưới vệt chân chim/ thu nước mắt vào đôi tay gầy guộc/ giấu thăng trầm cuộc đời trong mái tóc/ trở về… như một hướng đi được ấn định của muôn đời thi sĩ, để tiến xa hơn, đầu tiên ta phải quay về với chính bản thân để tìm chân giá trị bản ngã mình. Chưa hẳn là trở về để suy xét, nhưng thật cần thiết khi trở về để mang đi, thứ hành lý mà sơ khai mạch nguồn cuộc sống đã phó thác vào ta trong đêm trở dạ của mẹ. Với vốn liếng đó, nhà thơ đã phổ giấc mơ của mình vào cỏ, vào giấc mơ cỏ và vào giấc mơ của các cô thiếu nữ trên đã tai mèo ngàn năm ở vùng núi Tây Bắc này.

Nhà thơ Thèn Hương

Ở phần II, trường ca Giấc mơ của một loài cỏ, để bắt đầu cuộc hành trình của Cỏ cũng như của chính mình, nhà thơ đã phác họa nguồn gốc Sau đại hồng thủy// cỏ mọc lên. Vậy chăng Cỏ đã luôn mang giấc mơ bao đời nay để sống, để nảy nở, tàn lụi và cuối cùng để xanh lên, nhất thiết không phải từ tác giả, nhưng tác giả đã cho mình được dự phần vào sự tồn vong, quá trình hành hương của giấc cỏ, để tìm ra một sự khác biệt nào đó, vả chăng, chính tác giả là sự khác biệt: Một giấc mơ khờ khạo/ khi cánh rừng già bỏ đi/ bỏ đi nghiến, lim ngàn tuổi/ tảng Hin Mạ đầu nguồn bỏ đi// cỏ thấy nhiều giấc mơ bỏ đi// chẳng hẹn ngày về… – (Đi hay ở lại). Khi cất tiếng khóc chào đời chúng ta đều vô danh, không tên không tuổi, không danh không phận, như cỏ vậy, không ai vội đặt tên, nhưng có là gì cái tên có thể đổi dời khi không gì là chắc chắn kể cả hơi thở này. Thèn Hương cũng hiểu điều đó, cô trở về với vô danh, từ vô danh sẽ mơ những giấc mơ đầu sau tiếng khóc chào đời giữa đại ngàn xanh thẫm: Cỏ ước một tên gọi/ cỏ thèm tờ giấy khai sinh/ cỏ muốn bay/ cỏ mơ giấc mơ của cỏ/ dù mang thân bé nhỏ/ dù không họ không tên/ cỏ vẫn là mầm sống/ cỏ vẫn cần mọc lên. – (Vô danh cỏ).

Cỏ không là một ai cụ thể nhưng luôn là ai đó khi cần, khi bị vùi dập hay muốn xanh lên, vươn lên. Ở giữa núi đá, quanh co rừng già, cỏ là những cô gái Thái, Tày, Nùng Mông, Dao, Pà Thẻn, Sán Dìu mới lớn. Cỏ là những mảnh đời như Mảy 15 tuổi không biết đến con chữ, mang cái bụng thật thà, mái tóc đuôi bò xuống phố; là Luyến ở giữa ruộng vườn nhưng ủ giấc mơ VAC không bao giờ thực hiện được, do đa mang cơ nghiệp nhà chồng// thuốc thang cho bố mẹ/ Luyến/ khóc thêm một giấc mơ; là Mây cô gái Nùng Xí Mần đỗ đại học duy nhất bản trong mấy ngọn núi này, là Mây cũng thường thôi/ như khối bạn sinh viên nơi đây/ sẽ chẳng có gì là đáng kể/ nếu không một lần/ Mây hủy hôn ước/ cho/ giấc mơ; là Dì Lèng, là Lục lấy thanh xuân vượt qua số phận để tìm hạnh phúc; và cả thầy Phà chao chát với nghề giáo vùng cao khi được đo bằng sợi dây đánh giá mang từ thành phố: Cơn gió cải cách giáo dục đâu len tới bản làng xa xôi/ giáo án mẫu thầy chưa tuân thủ/ dạy trẻ người Mông đâu giống trẻ dưới xuôi// ba lần dự giờ// không đạt chuẩn/ đề nghị nghỉ hưu sớm… Tất cả những mảnh đời trên núi, gắn bó với núi đó đều được Thèn Hương đưa vào giấc mơ của cỏ. Họ có điểm chung là xuất phát từ nghèo đói túng quẫn, nhưng họ không để giấc mơ mình bỏ ngỏ, họ sẵn sàng đốt cháy để được tái sinh, được xanh lại lần nữa. Nhưng không phải giấc mơ nào cũng đẹp, ánh trăng nào cũng viên mãn tròn đầy, có những ra đi vào lầm lỡ, có những hôm dậy thì buồn ghê gớm… Và cỏ được đặt tên/ Hoàng Thảo, Giáng Hương, Ngọc Thảo, Hồ Điệp và bao nhiêu tên nữa/ cỏ được đổi chác, được trả giá cao, cao hơn nữa… (Đi tìm đất sống).

Chao chát đấy, đắng cay đấy nhưng chúng ta âu cũng phải như cỏ, sau bão giông vẫn nảy mầm, sau bao nát nhàu ngày gió vẫn hát ca đời mình, vì cốt yếu hơi thở này không hoài phí, sự sống này có lý do… đó là hơi thở của phần III – Thổ cẩm về xuôi.

Những gian truân của Cỏ đi định danh mình, hay nói cách khác, tìm lẽ sống của đời mình, Thèn Hương đã dẫn ta đi một vòng rất xa, từ hồng hoang sơ khai đến bao thế hệ sắc tộc “sống trong đã và chết vùi trong đá”, với đầy ắp những nghi lễ của Then, của đàn tính, của khăn piêu, váy cốm, điệu khèn,… và giờ cô tìm gặp mình, định danh được mình trên chính mảnh đất nơi cô sinh ra, chính nhúm đất mà cỏ vươn mầm chồi dậy: Cỏ thảng thốt/ sao trước đây tôi không nhận ra/ quê mình đẹp thế// khi tôi sinh ta/ ruộng bậc thang Hoàng Su Phì đúng mùa lúa chín// có dòng Lô trong xanh, rêu phong thành cổ// bay vút lên lời Then, lời Cọi// có cổng trời Quản Bạ// có cao nguyên đá Đồng Văn// thiêng liêng cột cờ Lũng Cú// máu lửa và nước mắt viết nên bản hùng ca// và rồi/ cỏ không cần nữa/ giấy khai sinh – (Quê nhà tìm thấy). Có thể nói quê hương luôn chữa lành mọi vết thương đời ban tặng, quê hương là tổ ấm, là nơi xoa dịu những mộng mị băn khoăn, nhưng phàm những gì gần gũi, vô cầu quá ta lại không lưu tâm đến nó, đến khi cuộc ra đi, truy lùng và vượt thoát diễn ra trong bản ngã làm ta nguy nan, khi ấy bất giác nơi phía làng lại cho ta cảm giác an toàn nhất.

Mô típ anh hùng ca, hành hương này không mới, đó là mô típ được diễn ra trên ngọn nguồn các dân tộc kể cả phương Đông lẫn Tây, nhưng phải thừa nhận rằng với quá trình ra đi – vượt thoát – tìm thấy – về lại và thở của Thèn Hương đã mang dấu ấn riêng biệt. Sự riêng biệt đó không phải ở cách đi, mà ở ngay sắc tộc của cô, ở nơi cô sinh ra và lớn lên, mang khát khao, ước muốn, âm giọng, màu áo chàm… của cộng đồng người miền núi phía Bắc đã làm nên một Thèn Hương khác lạ, đó là: Ba tháng ngô – trăm ngày lúa/ 300 lần chào mặt trời nái trâu sinh nghé/ 3 năm cây sơn chảy nhựa/ 5 năm keo lai nên rừng (Rể đời); đó là lời Sình Ca vang vang/ điệu Chim gâu, Xúc tép, Cầu mùa// buồn như nàng Lưu Ba thủa ấy… (Vũ điệu Cao Lan). Với những kí tự đẹp của truyền thống Thèn Hương đã thổi vào âm hưởng hiện đại, cô bày giấc mơ của mình mang dáng dấp ông cha nhưng lại bằng lời nói của Thèn Hương hiện tại, sự kết hợp đầy quyến rũ của giấc mơ đậm văn hóa cộng đồng người dân tộc vùng cao với sự tự do của ngôn ngữ, thi pháp mà thi sĩ triển khai đã tạo nên sự cuốn hút với ánh sáng kỳ lạ. Đó là ánh sáng của giấc mơ, của môi cười: Đã qua bao nỗi tháng năm/ đã đi khắp nẻo bản làng quê hương/ đã ôm ấp vạn tâm hồn/ đã cay đắng/ đã thảo thơm khóc, cười/ hôm nay/ thổ cẩm về xuôi// môi cười/ trong sáng thơ ngây/ thổ cẩm em nắng ấm đầy hồn tôi – (Thổ cẩm về xuôi).

Khép lại tập thơ – trường ca Giấc mơ của một loài cỏ, Thèn Hương đôi khi đã làm tôi tiếc nuối. Tiếc vì những âm hưởng ấy sao không dài ra thêm mà chỉ có 44 khúc, sao không cho tôi thêm vài kí tự văn hóa nữa, tôi chưa muốn về xuôi, còn mê mải trên đá tai mèo và mùa hoa lê trắng phủ hoang vu lên vách núi. Phần tôi lại tiếc vì ở một vài câu kết trong các bài của cô còn dễ dãi, chưa thật lắng đọng, chưa gợi đến tôi phải đau hay nghĩ về nó, đôi chỗ chốt còn vụng về làm đứt giấc mơ tôi lưng chừng lữ thứ… Nhưng đây chỉ là thi tập đầu tiên của cô, để lại sự tiếc nuối đôi lúc cũng hay, vì chí ít, tôi còn nuôi được mộng. Giấc mộng của sự cho đi, sự kỳ vọng, tha thứ, kiêu hãnh và đôn hậu như cỏ, như Thèn Hương đã phổ vào tập này: Thì thầm với nắng/ rì rầm trong mưa/ ai hiểu lời hát/ xanh qua bốn mùa – (Cỏ hát).

Theo Trần Đức Tín/ Báo Ngày Nay

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm