TIN TỨC

Khóc, cười trong thơ Nguyễn Ngọc Thu

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
839 lượt xem

Xuân Trường

 Người ta thường nói nước mắt mặn, nước mắt đắng, nhà thơ Thanh Tùng đã nới về thiếu nhi “các em mềm như nước mắt” nay Nguyễn Ngọc Thu lại phát hiện ra nước mắt không già trong bài Gặp lại: “Bao nhiêu điều nuối tiếc / Thời chinh chiến đã qua / Chỉ những giot nước mắt / Gặp nhau mãi không già”

Nhà thơ Nguyễn Ngọc Thu.

1. Tất cả nhân loại khi sinh ra đã chào đời bằng tiếng khóc, tiếng khóc bắt đầu cho tương lai, một hành trình có bình yên, có thăng trầm dâu bể, có hạnh phúc, có khổ đau cứ thế mà xê dịch, mà lay động cuộc đời chúng ta cho đến những ngày cuối cùng trước khi vắng mặt vĩnh viễn trên mặt đất này: “Khi có dịp chụp hình/ Người ta thường thích cười/ Bởi đời một con người/ Cười không nhiều bằng khóc (trong bài Cười-khóc).

Nước mắt của con người chảy vào thiên tai địch họa, chảy vào chiến tranh, chảy vào những nỗi đau rình rập bất ngờ, cũng có thể do chính con người tự gây ra, từ khi có nhân loại nước mắt có thể tụ thành biển lớn và nụ cười thì cũng đầy ắp cả không gian, cũng có khi cười lại ra nước mắt và người ta đã ví nụ cười là cái khóc khô không lệ. Đời người được bắt đầu bằng tuổi thơ qua thành niên đến trưởng thành, yêu đương , lập gia đình rồi mải mê với hành trình cơm áo. Nhưng Nguyễn Ngọc Thu thì không phải vậy. Anh cùng với thế hệ của mình sinh ra trong hoàn cảnh đất nước ta đang có quân thù dày xéo, anh đã xếp bút nghiên , đáp lời sông núi vào cuộc trường chinh vệ quốc, bỏ lại sau lưng những ước mơ, những mộng tưởng, những người thân và môi chưa chạm phải lời yêu, chưa nghĩ đến ngày về bâng khuâng trong anh “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Anh đã tự giới thiệu mình “Ta về Thanh Miện quê hương / “Chôn nhau cắt rốn” lớn khôn thành người / Mênh mông biển lúa mây trời / “ đất lành chim đậu” ngàn đời ông cha…” (Ta về). Và đây nữa “… Bến phà xưa không còn / Cầu Mỹ lợi bắc ngang / Con lại về bên  ấy / Bao nghĩa tình nặng mang” (Quê nội).

Có lẽ trời Nam đất Bắc đã làm cho không gian thơ Nguyễn Ngọc Thu lung linh, huyền ảo, luôn hiện ra muôn cảnh, muôn màu, yên lặng mà dữ dội, từ trong sâu lắng mà bật ra những âm thanh xé lòng, mỗi lúc càng mở rộng biên độ cảm xúc làm cho ta rung lên khi lạc vào không gian thơ Nguyên Ngọc Thu. Anh là nhà thơ của lính nên tính ngăn nắp, gọn gàn, nguyên tắc, trung thành, chịu đựng, và cái thi vị của người chiến binh vệ quốc đánh giặc bảo vệ độc lập quê hương, tất cả đã làm nên chất liệu cho thơ anh bềnh vững nhưng không thiếu những ảo điệu mong manh, nhẹ nhàng, xao xuyến lòng người: “Đời người ngắn lắm ai ơi / Khôn ra thì đã… gần nơi… cõi về” (Hoài niệm) nhẹ nhàng mà triết lý nhân sinh lắm, “Ngắt hoa sau vườn nhà / Thắp nhang bàn thờ em / Những bông trang đỏ thắm / Còn đọng giọt sương đêm / Nhiều người còn muốn ngắm / Cũng đành giành thương em” (Sớm mai) mong manh mà nước mắt lắm Nguyễn Ngọc Thu ơi.


Tập thơ “Phía mặt trời” của Nguyễn Ngọc Thu

Hoàn cảnh tác giả luôn luôn lắng đọng vào trong thơ như người phương Tây đã nói “le style c est l home”, văn chương chở đạo đời. Nguyễn Ngọc Thu thuộc mẫu người nội tâm, anh yên lặng viết, yên lăng nghe và yên lặng tìm kiếm phát hiện, miệt mài như những cánh ong hút mật chữ nghĩa mà thành cái nghiệp văn chương . Mới gặp tưởng anh là người kiêu bạc nhưng khi đã kết nối thì tôi đã đếm được nỗi buồn anh, có lúc anh lại vô vi, do vây các từ “trời phật” hay xuất hiện tong thơ anh. Anh như một bông hoa súng tím mộng mơ, bên một góc trời, không làm rạo rực cỏ cây như hoa sen, nhưng sẽ xao động lòng ai đã ngang qua đấy và dừng lại khi nghe “… Dạ thưa nước mắt xuôi dòng / Con ru cháu tiếp mênh mông biển dời / Đồng lòng là kiếp con người / Lời ru muôn thuở… ru nuôi tâm hồn”. Những nụ cười trai tráng của Nguyễn Ngọc Thu, đã tạc vào Trường Sơn thành ký ức tươi xanh thời kháng chiến, anh đã dấn thân yêu đời và tự hào. Những tiếng khóc của Nguyễn Ngọc Thu đêm đêm cho đồng đội nằm lại chiến trường, cho người vợ hiền quá cố từ độ thanh xuân, cho những giả dối của lòng người…

2. Sóng lòng hay sóng thi ca cứ vỗ vô biên giục giã anh viết, viết cho quê hương, viết cho thiên nhiên và thân phận con người. Với “Biển đời” xuất hiện một Nguyễn Ngọc Thu giàu trải nghiệm, qua những dông bão, bể dâu, ngọt bùi, cay đắng của cuộc đời, chỉ 27 đoản khúc viết cho người vợ hiền quá cố của anh đã rung lên trong ta những tiếng kêu thất thanh từ sự dồn nén khổ đau, thương nhớ. Sau đó sự xuất hiện của “Mùa hoa dã quỳ” anh lại gần gủi với thiên nhiên, với bao hoài niệm, bi hùng một thời trận mạc. Rồi qua “Ngôn ngữ tứ tuyệt” thơ anh đã có tầm khái quát cho những triết lý nhân sinh. Đến trường ca “Đã gần 40 năm” anh đã bộc lộ sự trăn trở của người lính sau ngày về đang tồn tại giữa hiện thực xã hội của thời anh đang sống với thái độ nghiêm túc mà nhìn nhận mọi diễn biến xã hội trước mắt anh. Bây giờ đến “Phía mặt trời” thơ Nguyễn Ngọc Thu có tầm khái quát, tư liệu chiến tranh là nguồn cảm xúc phong phú, sự chân thành, nghiêm túc, những hoài niệm đã mở ra và hướng tới cho thơ Nguyễn Ngọc Thu không lẫn vào ai được.


Nhà thơ Xuân Trường

Những bước chân lãng du qua mọi miến đất đã khơi gợi cho anh nguồn cảm xúc bất tận nhìn ngoại mà hướng nội, hòa hợp dân tộc hòa hợp gia đình “… Xa bao năm hội ngộ / Buồn vui chuyện trong nhà / Tiền tài không hẳn sẳn / Tâm tình thì bao la / Chuyện Quốc Gia Quốc Tế / Đụng đến là lệch pha / Tranh luận càng thêm rối / Yên lặng và tránh xa/ … Chiến tranh dã lùi xa / Lòng người còn sóng gió!” (Hội ngộ) hoặc là “Ngày xưa anh chị vượt biên / Nay người yêu nước mặc nhiên Việt Kiều / Dân như giọt nước thủy triều / Mặc cho trái đất xoay chiều xuống lên / Cho dù thế giới đảo điên / Gà cùng một mẹ Tổ Tiên… vẫn là!” (Hoàn cảnh). Mùa trong thơ Nguyễn Ngọc Thu luôn phảng phất hương quê, anh lại gần gũi với thiên nhiên “Tháng ba những trận mưa rào / Cá rô lạch vượt hồ ao ra đồng / Thảm lúa con gái ken chồng / Khói lam chiều vịn uốn cong tre làng…” (Tháng ba). Lục bát không phải sở trường của anh nhưng “Lúa thì con gái kén chồng / Khói lam chiều vịn uốn cong tre làng…” là hình tượng, là hiện đại ngôn ngữ, làm cho lục bát mới ra, một cách nhẹ nhàng. Nguyễn Ngọc Thu luôn mở lòng ra với thiên nhiên “Đã lập tiết sang đông / Sao Thu còn níu lại / Hờn giận mà làm chi / Xuân về ta xanh lại / Thời gian kéo mùa đi / Tình ta còn ở lại”.

Trong những nội hàm của cách phê bình hiện đại hôm nay là phê bình sinh thái hướng văn chương phải vào cuộc để cứu lấy môi trường sống đã và đang bị đe dọa từng ngày. Nguyến Ngọc Thu đã đi đúng hướng ấy trong “Phía mặt trời” có không ít những bài thơ gắn chặc thiên nhiên và con người. Đêm đêm hơi thở của mùa chinh chiến cũ đã phả vào anh những gian truân vội vả của ngày xưa, mùi hương của đồng đội, của quê hương, của núi rừng.

Hình ảnh của người vợ quá cố, mà anh đã hết lòng yêu thương “đi đâu em vẫn là số một”cứ hiện về. Tất cả làm cho thơ Nguyễn Ngọc Thu càng trăn trở, những bi hùng, những mãn hội ức, những khóc cười, những vật vả áo cơm, những gắn kết, quá khứ hào hùng và hiện tại đa đoan, thì anh đã tìm ra được hướng đi cho thơ và đời anh dã vượt qua gian khổ để tìm ra lẽ sống cho chính mình. Đây quý vị hãy nghe anh vô vi: “… Thân phận loài chim yến / Lấy cái chết làm đầu / Cả cuộc đời dâng hiến / Trọn kiếp đời đau thương” (Chim yến) và đây nữa: “Hình như em hiện hình về / Bóng em lẫn giữa bốn bè hoa lau / Âm dương cách trở đã lâu / Vẫn nghe tiếng vọng hai đầu nhớ thương” (Hình như).

Người ta thường nói nước mắt mặn, nước mắt đắng, nhà thơ Thanh Tùng đã nới về thiếu nhi “các em mềm như nước mắt” nay Nguyễn Ngọc Thu lại phát hiện ra nước mắt không già trong bài Gặp lại: “Bao nhiêu điều nuối tiếc / Thời chinh chiến đã qua / Chỉ những giot nước mắt / Gặp nhau mãi không già”. Hai câu đầu là hoài niệm, hiện thực một thời, nhưng hai câu sau đậm chất thơ, nâng lên cung bậc cảm xúc, một phát hiện rất gần gủi mà ít ai nghĩ ra, đúng là cười ra nước mắt vì mừng quá đấy thôi. “Phía mặt trời” là thông điệp bình yên, mở ra và hướng tới, vượt qua những bóng tối để mà tồn tại, để mà thủy chung, để mà gắn kết, phải chăng nó là liều thuốc quý giá giúp cho đời bình sinh sau những phong ba bão táp hãi hùng.

Khép lại trang viết này vẫn chưa hết những điều tôi muốn nói cho thơ Nguyễn Ngọc Thu. Xin quý vị hãy tiếp tục cảm nhận. Chúc anh thành công trong hướng đi của mình, cũng là trong cái nghiệp, cái vô thường của thi ca.

X.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm