TIN TỨC

Khóc, cười trong thơ Nguyễn Ngọc Thu

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-06-17 00:07:54
mail facebook google pos stwis
1869 lượt xem

Xuân Trường

 Người ta thường nói nước mắt mặn, nước mắt đắng, nhà thơ Thanh Tùng đã nới về thiếu nhi “các em mềm như nước mắt” nay Nguyễn Ngọc Thu lại phát hiện ra nước mắt không già trong bài Gặp lại: “Bao nhiêu điều nuối tiếc / Thời chinh chiến đã qua / Chỉ những giot nước mắt / Gặp nhau mãi không già”

Nhà thơ Nguyễn Ngọc Thu.

1. Tất cả nhân loại khi sinh ra đã chào đời bằng tiếng khóc, tiếng khóc bắt đầu cho tương lai, một hành trình có bình yên, có thăng trầm dâu bể, có hạnh phúc, có khổ đau cứ thế mà xê dịch, mà lay động cuộc đời chúng ta cho đến những ngày cuối cùng trước khi vắng mặt vĩnh viễn trên mặt đất này: “Khi có dịp chụp hình/ Người ta thường thích cười/ Bởi đời một con người/ Cười không nhiều bằng khóc (trong bài Cười-khóc).

Nước mắt của con người chảy vào thiên tai địch họa, chảy vào chiến tranh, chảy vào những nỗi đau rình rập bất ngờ, cũng có thể do chính con người tự gây ra, từ khi có nhân loại nước mắt có thể tụ thành biển lớn và nụ cười thì cũng đầy ắp cả không gian, cũng có khi cười lại ra nước mắt và người ta đã ví nụ cười là cái khóc khô không lệ. Đời người được bắt đầu bằng tuổi thơ qua thành niên đến trưởng thành, yêu đương , lập gia đình rồi mải mê với hành trình cơm áo. Nhưng Nguyễn Ngọc Thu thì không phải vậy. Anh cùng với thế hệ của mình sinh ra trong hoàn cảnh đất nước ta đang có quân thù dày xéo, anh đã xếp bút nghiên , đáp lời sông núi vào cuộc trường chinh vệ quốc, bỏ lại sau lưng những ước mơ, những mộng tưởng, những người thân và môi chưa chạm phải lời yêu, chưa nghĩ đến ngày về bâng khuâng trong anh “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Anh đã tự giới thiệu mình “Ta về Thanh Miện quê hương / “Chôn nhau cắt rốn” lớn khôn thành người / Mênh mông biển lúa mây trời / “ đất lành chim đậu” ngàn đời ông cha…” (Ta về). Và đây nữa “… Bến phà xưa không còn / Cầu Mỹ lợi bắc ngang / Con lại về bên  ấy / Bao nghĩa tình nặng mang” (Quê nội).

Có lẽ trời Nam đất Bắc đã làm cho không gian thơ Nguyễn Ngọc Thu lung linh, huyền ảo, luôn hiện ra muôn cảnh, muôn màu, yên lặng mà dữ dội, từ trong sâu lắng mà bật ra những âm thanh xé lòng, mỗi lúc càng mở rộng biên độ cảm xúc làm cho ta rung lên khi lạc vào không gian thơ Nguyên Ngọc Thu. Anh là nhà thơ của lính nên tính ngăn nắp, gọn gàn, nguyên tắc, trung thành, chịu đựng, và cái thi vị của người chiến binh vệ quốc đánh giặc bảo vệ độc lập quê hương, tất cả đã làm nên chất liệu cho thơ anh bềnh vững nhưng không thiếu những ảo điệu mong manh, nhẹ nhàng, xao xuyến lòng người: “Đời người ngắn lắm ai ơi / Khôn ra thì đã… gần nơi… cõi về” (Hoài niệm) nhẹ nhàng mà triết lý nhân sinh lắm, “Ngắt hoa sau vườn nhà / Thắp nhang bàn thờ em / Những bông trang đỏ thắm / Còn đọng giọt sương đêm / Nhiều người còn muốn ngắm / Cũng đành giành thương em” (Sớm mai) mong manh mà nước mắt lắm Nguyễn Ngọc Thu ơi.


Tập thơ “Phía mặt trời” của Nguyễn Ngọc Thu

Hoàn cảnh tác giả luôn luôn lắng đọng vào trong thơ như người phương Tây đã nói “le style c est l home”, văn chương chở đạo đời. Nguyễn Ngọc Thu thuộc mẫu người nội tâm, anh yên lặng viết, yên lăng nghe và yên lặng tìm kiếm phát hiện, miệt mài như những cánh ong hút mật chữ nghĩa mà thành cái nghiệp văn chương . Mới gặp tưởng anh là người kiêu bạc nhưng khi đã kết nối thì tôi đã đếm được nỗi buồn anh, có lúc anh lại vô vi, do vây các từ “trời phật” hay xuất hiện tong thơ anh. Anh như một bông hoa súng tím mộng mơ, bên một góc trời, không làm rạo rực cỏ cây như hoa sen, nhưng sẽ xao động lòng ai đã ngang qua đấy và dừng lại khi nghe “… Dạ thưa nước mắt xuôi dòng / Con ru cháu tiếp mênh mông biển dời / Đồng lòng là kiếp con người / Lời ru muôn thuở… ru nuôi tâm hồn”. Những nụ cười trai tráng của Nguyễn Ngọc Thu, đã tạc vào Trường Sơn thành ký ức tươi xanh thời kháng chiến, anh đã dấn thân yêu đời và tự hào. Những tiếng khóc của Nguyễn Ngọc Thu đêm đêm cho đồng đội nằm lại chiến trường, cho người vợ hiền quá cố từ độ thanh xuân, cho những giả dối của lòng người…

2. Sóng lòng hay sóng thi ca cứ vỗ vô biên giục giã anh viết, viết cho quê hương, viết cho thiên nhiên và thân phận con người. Với “Biển đời” xuất hiện một Nguyễn Ngọc Thu giàu trải nghiệm, qua những dông bão, bể dâu, ngọt bùi, cay đắng của cuộc đời, chỉ 27 đoản khúc viết cho người vợ hiền quá cố của anh đã rung lên trong ta những tiếng kêu thất thanh từ sự dồn nén khổ đau, thương nhớ. Sau đó sự xuất hiện của “Mùa hoa dã quỳ” anh lại gần gủi với thiên nhiên, với bao hoài niệm, bi hùng một thời trận mạc. Rồi qua “Ngôn ngữ tứ tuyệt” thơ anh đã có tầm khái quát cho những triết lý nhân sinh. Đến trường ca “Đã gần 40 năm” anh đã bộc lộ sự trăn trở của người lính sau ngày về đang tồn tại giữa hiện thực xã hội của thời anh đang sống với thái độ nghiêm túc mà nhìn nhận mọi diễn biến xã hội trước mắt anh. Bây giờ đến “Phía mặt trời” thơ Nguyễn Ngọc Thu có tầm khái quát, tư liệu chiến tranh là nguồn cảm xúc phong phú, sự chân thành, nghiêm túc, những hoài niệm đã mở ra và hướng tới cho thơ Nguyễn Ngọc Thu không lẫn vào ai được.


Nhà thơ Xuân Trường

Những bước chân lãng du qua mọi miến đất đã khơi gợi cho anh nguồn cảm xúc bất tận nhìn ngoại mà hướng nội, hòa hợp dân tộc hòa hợp gia đình “… Xa bao năm hội ngộ / Buồn vui chuyện trong nhà / Tiền tài không hẳn sẳn / Tâm tình thì bao la / Chuyện Quốc Gia Quốc Tế / Đụng đến là lệch pha / Tranh luận càng thêm rối / Yên lặng và tránh xa/ … Chiến tranh dã lùi xa / Lòng người còn sóng gió!” (Hội ngộ) hoặc là “Ngày xưa anh chị vượt biên / Nay người yêu nước mặc nhiên Việt Kiều / Dân như giọt nước thủy triều / Mặc cho trái đất xoay chiều xuống lên / Cho dù thế giới đảo điên / Gà cùng một mẹ Tổ Tiên… vẫn là!” (Hoàn cảnh). Mùa trong thơ Nguyễn Ngọc Thu luôn phảng phất hương quê, anh lại gần gũi với thiên nhiên “Tháng ba những trận mưa rào / Cá rô lạch vượt hồ ao ra đồng / Thảm lúa con gái ken chồng / Khói lam chiều vịn uốn cong tre làng…” (Tháng ba). Lục bát không phải sở trường của anh nhưng “Lúa thì con gái kén chồng / Khói lam chiều vịn uốn cong tre làng…” là hình tượng, là hiện đại ngôn ngữ, làm cho lục bát mới ra, một cách nhẹ nhàng. Nguyễn Ngọc Thu luôn mở lòng ra với thiên nhiên “Đã lập tiết sang đông / Sao Thu còn níu lại / Hờn giận mà làm chi / Xuân về ta xanh lại / Thời gian kéo mùa đi / Tình ta còn ở lại”.

Trong những nội hàm của cách phê bình hiện đại hôm nay là phê bình sinh thái hướng văn chương phải vào cuộc để cứu lấy môi trường sống đã và đang bị đe dọa từng ngày. Nguyến Ngọc Thu đã đi đúng hướng ấy trong “Phía mặt trời” có không ít những bài thơ gắn chặc thiên nhiên và con người. Đêm đêm hơi thở của mùa chinh chiến cũ đã phả vào anh những gian truân vội vả của ngày xưa, mùi hương của đồng đội, của quê hương, của núi rừng.

Hình ảnh của người vợ quá cố, mà anh đã hết lòng yêu thương “đi đâu em vẫn là số một”cứ hiện về. Tất cả làm cho thơ Nguyễn Ngọc Thu càng trăn trở, những bi hùng, những mãn hội ức, những khóc cười, những vật vả áo cơm, những gắn kết, quá khứ hào hùng và hiện tại đa đoan, thì anh đã tìm ra được hướng đi cho thơ và đời anh dã vượt qua gian khổ để tìm ra lẽ sống cho chính mình. Đây quý vị hãy nghe anh vô vi: “… Thân phận loài chim yến / Lấy cái chết làm đầu / Cả cuộc đời dâng hiến / Trọn kiếp đời đau thương” (Chim yến) và đây nữa: “Hình như em hiện hình về / Bóng em lẫn giữa bốn bè hoa lau / Âm dương cách trở đã lâu / Vẫn nghe tiếng vọng hai đầu nhớ thương” (Hình như).

Người ta thường nói nước mắt mặn, nước mắt đắng, nhà thơ Thanh Tùng đã nới về thiếu nhi “các em mềm như nước mắt” nay Nguyễn Ngọc Thu lại phát hiện ra nước mắt không già trong bài Gặp lại: “Bao nhiêu điều nuối tiếc / Thời chinh chiến đã qua / Chỉ những giot nước mắt / Gặp nhau mãi không già”. Hai câu đầu là hoài niệm, hiện thực một thời, nhưng hai câu sau đậm chất thơ, nâng lên cung bậc cảm xúc, một phát hiện rất gần gủi mà ít ai nghĩ ra, đúng là cười ra nước mắt vì mừng quá đấy thôi. “Phía mặt trời” là thông điệp bình yên, mở ra và hướng tới, vượt qua những bóng tối để mà tồn tại, để mà thủy chung, để mà gắn kết, phải chăng nó là liều thuốc quý giá giúp cho đời bình sinh sau những phong ba bão táp hãi hùng.

Khép lại trang viết này vẫn chưa hết những điều tôi muốn nói cho thơ Nguyễn Ngọc Thu. Xin quý vị hãy tiếp tục cảm nhận. Chúc anh thành công trong hướng đi của mình, cũng là trong cái nghiệp, cái vô thường của thi ca.

X.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm