TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • “Lạc lối đến thiên đường” hay là thông điệp của sự yêu thương

“Lạc lối đến thiên đường” hay là thông điệp của sự yêu thương

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-07-26 14:04:41
mail facebook google pos stwis
207 lượt xem

(Đọc “Lạc lối đến thiên đường”, Tiểu thuyết của Đới Xuân Việt, Nxb tổng hợp Tp HCM, 2025)

Nhà thơ Trương Nam Hương giới thiệu tôi làm quen với đạo diễn, nhà biên kịch điện ảnh Đới Xuân Việt. Được biết trong làng phim nhựa ông Việt từng đoạt một số giải thưởng tại các liên hoan phim Việt Nam như tác phẩm Người đàn bà nghịch cát, Anh chỉ có mình em. Các phim tài liệu khoa học như Môi trường Việt Nam đầu thế kỷ 21, Mùa chim di cư, Cây di sản và bản sắc văn hóa Việt Nam, cũng gây ấn tượng và được giới chuyên môn đánh giá cao. Ngoài làm biên kịch, đạo diễn, Đới Xuân Việt rất mê văn chương và đã có một số đầu sách của riêng mình như Đi qua vừng mặt trời (2019), Anh chỉ có mình em (2020), Hoa Đỗ Quyên nở muộn (2020), Truyền thuyết nàng Tuyệt Vời (2022), Về nơi nguồn cội (2024). Ông là Hội viên Hội Điện ảnh Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh.

Bìa tác phẩm Lạc lối đến thiên đường

Một ngày của tháng 4/2025 hai chúng tôi gặp nhau. Người đàn ông có dáng người thấp, nho nhã, giọng nói nhỏ nhẹ khúc triết, cặp mắt đặc biệt tinh anh nói với tôi rằng ông từng là học sinh giỏi văn miền Bắc. Cha của ông là GS ngôn ngữ Đái Xuân Ninh cũng giảng dạy đại học và viết sách. Ra là như thế. Như tôi biết thì các nhà thơ Lương Minh Cừ, Vũ Thiên Kiều, Nguyễn Vũ Quỳnh thảy đều là học sinh giỏi văn miền Bắc và giờ đều thành tựu trong văn chương. Nói thế để thấy cái mác học sinh giỏi văn miền Bắc nó oách cỡ nào. Ông Việt đưa cho tôi tập bản thảo cuốn tiểu thuyết có tựa đề Lạc lối đến thiên đường chừng trăm ba trăm tư trang vi tính khổ giấy A4 để đọc và góp ý, và tôi đã nhận lời. Tôi đã đọc một mạch từ dòng mở đầu cho tới dòng cuối cuốn sách và gần như ngay lập tức nhận ra chiến tranh trong sách của ông Việt có sự khác biệt phải nói là rõ ràng trong mối liên hệ với các tác phẩm cùng viết về chiến tranh của các tác giả khác. Đề tài chiến tranh thống lĩnh văn đàn nhiều thập kỷ. Có thể kể ra đây Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Hướng, Xuân Lộc của Hoàng Đình Quang, Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, thậm chí hồn cốt Tướng về hưu của vua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp cũng bấu víu vào chiến tranh dù nội dung về thời kinh tế thị trường. Rất nhiều các vị tướng tá giờ cũng ra sách kể chuyện thời binh lửa. Tóm lại sách văn học về đề tài chiến tranh rất nhiều và chẳng bao giờ dừng lại bởi càng có độ lùi về thời gian thì sự soi chiếu các sự kiện sẽ càng khách quan và công tâm, sâu sắc hơn. “Người ta gọi mùa hè năm 1972 ở Quảng Trị là mùa hè đỏ lửa. Không phải chỉ vì đạn pháo và bom các loại của Mỹ được dội xuống dày đặc ở mảnh đất này mà còn được phụ họa bởi thời tiết khắc nghiệt của dải đất dằng dặc khúc ruột miền Trung. Những cơn gió Lào khô nóng đã nung nhà, nung cửa, cây cối và vạn vật đến cháy bỏng, đen thui.” – Đới Xuân Việt đã mở màn tác phẩm của mình như vậy. Giữa một rừng sách dĩ nhiên khó có thể quán xuyến hết, tôi đọc Lạc lối đến thiên đường và không có cảm giác bị trùng lặp. Thiết nghĩ không trùng lặp với người khác đã là một thành công của sự sáng tạo.   

Nhà văn Cao Chiến (trái) và nhà văn Đới Xuân Việt

Tác phẩm không có nhiều tình tiết gay cấn ngoại trừ mối tình tay ba giữa Phương và hai nữ thanh niên xung phong Thơm và Đào và cuộc đấu khẩu của Phương với nhân vật Diêm Vương ở âm ti địa phủ. Ở tình huống sau khi bị bom làm sập hầm và được cứu (quả bom đã không phát nổ bằng không chàng kỹ sư ở đơn vị sửa chữa ô tô thuộc Tổng cục Hậu cần phục vụ mặt trận Quảng Trị đã tan xương nát thịt), Phương rơi vào trạng thái như người sống trong u minh, lúc nào cũng nghĩ mình “đi” rồi. Anh thấy mình bay về quê hương, bị Diêm Vương ở âm ti địa phủ gọi tra hỏi về cuộc sống của anh ở cõi phàm, có tham ô gái gú gì không. Chao ôi ranh giới giữa hư và thực hết sức mong manh, người viết đuối hơi một chút có thể khiến mạch chuyện đứt gãy, nhưng nếu sung quá thì hệ quả thậm chí tai hại hơn, khiến cho nội dung vỡ vụn. Độc giả cụ thể ở đây là tôi đôi lúc phân tâm ghê gớm nhưng thật may mắn là Đới Xuân Việt làm chủ được tình huống và diễn biến trong câu chuyện đều ổn thỏa. Căn bệnh “âm” bí hiểm của Phương khiến Quân y đơn vị thúc thủ. Thủ trưởng và Quân y quyết định chuyển qua phương thức điều trị dân gian như bấm huyệt, xua bóp, sắc lá thuốc để cứu đồng đội của mình thoát hiểm. Sự xuất hiện của Tấn cùng hai nữ thanh niên xung phong Đào và Thơm đã thổi luồng gió lành vào Phương khiến anh hồi phục tâm trí. Đào và Thơm yêu Phương và Phương cũng có tình cảm với họ. Trong khoảng thời gian ngắn Phương đã “yêu” cả hai dẫn tới kết cục một trong hai cô là Thơm có mang. Sự dan díu tay ba là gút thắt chẳng dễ cởi bỏ và có thể đưa tới những hệ lụy. Yêu gì mà yêu tham thế, những hai cô lận, hơn nữa họ lại là chí cốt của nhau. Thực sự gút thắt khó gỡ nhưng Đới Xuân Việt đã gỡ rất mượt. Mối tình ở chừng mực nhất định có thể coi là tình tay ba nhưng lại hết sức trong trẻo dù đã “lên giường” tới bến. Để hiểu được tại sao lại như vậy thì chỉ còn cách tự mình đọc và ngẫm và cảm chứ tôi không diễn giải được. Lạ thế!    

Và cũng lần đầu tiên, là tôi cho như vậy, hình ảnh người lính dắt những chú lừa đi phục vụ chiến trường được viết ra bằng văn xuôi, đương nhiên trong ngữ cảnh phục vụ cho câu chuyện, khiến tôi bất giác liên tưởng tới bài thơ Anh bộ đội và tiếng nhạc la (trong chùm thơ được trao giải nhất cuộc thi thơ Báo Văn nghệ năm 72-73) của Hoàng Nhuận Cầm:

“Anh bộ đội xắn quần đi trong mưa

Bầy la theo rừng già, rừng thưa

Rừng đâu chỉ có giọng chim lạ

Còn có tiếng nhạc trên cổ la”...

Thực tiễn chiến trường muôn hình vạn trạng không thể dùng trí tưởng tượng để đo đếm. Thơ và văn xuôi trong tình huống này đã bổ sung thông tin cho nhau một cách sống động. Ông Việt có khả năng tạo dựng và giải quyết tình huống tốt. Việc khắc họa tính cách nhân vật cũng vậy, rất rõ nét. Dung - Đại đội trưởng thanh niên xung phong, Đào, Thơm, Lý, ông Thọ - chính trị viên của họ, mỗi người mỗi tính cách chẳng ai giống ai. Các nhân vật trong đại đội sữa chữa xe ô tô như Phương, Hợi, Đáo, Chính trị viên Ứng, Đại đội trưởng Thuận, Tấn…cũng thế. Rõ là phải có chút tài, trong quan sát, trong hiểu biết tâm lý, mới có thể viết ra được như vậy.

Tác phẩm Lạc lối đến thiên đường được viết bằng ngôn ngữ hồn nhiên đậm chất Hà Nội băm sáu phố phường. Có những trang văn bùi ngùi bàng bạc sương khói như cảnh Thơm dắt con đi ra cánh đồng cỏ may đầy gió gọi tên người yêu trong tuyệt vọng. Hoặc khi Thơm và Phương quấn quít bên nhau... Gái một con trông mòn con mắt, là các cụ nhà ta nói thế, trong khi Phương biệt tích, Thơm đã hoàn thành nghĩa vụ thanh niên xung phong trở về. Quả là những ngày tháng đong bằng nước mắt của cuộc đời người con gái không chồng mà chửa. Khi những mừng vui đã lắng xuống giờ là lúc những nghi ngờ lên tiếng. Chồng ở đâu mà chẳng thấy xuất hiện. Gia đình, họ hàng hối thúc Thơm phải lựa chọn. Họ đã “chấm” con của ông Lợi, 25 tuổi hơn Thơm 2 tuổi, gia đình buôn bán, cho cô. Thơm tuyệt vọng, nhưng ở trong cô không mất đi hi vọng, và cô đã nói với ông Phán, cha mình thế này: “Con xin nói thật, là bộ đội trước sau như một, chồng con không nói dối, không xảo trá, lừa lọc. Bộ quốc phòng điều động anh ấy về Hà Nội không phải để nghỉ ngơi mà là nhận nhiệm vụ mới, chắc là rất quan trọng. Chiến tranh sắp kết thúc, anh ấy sẽ trở về. Bố không phải đợi lâu đâu. Còn cái cậu con trai ấy con chẳng lạ gì. Cứ mỗi lần khám nghĩa vụ quân sự cậu ta lại trốn biệt sang tỉnh khác. Cái loại trốn chui trốn lủi ấy nhân cách có ra cái gì. Có giàu, con cũng không thèm”. Đó không chỉ là lời nói mà là lý tưởng, niềm tin của một thế hệ những con người trong chiến tranh và có ý nghĩa rất sâu sắc với hiện tại. Tiểu thuyết kết thúc có hậu, và tôi cũng thích một cái kết có hậu.

Chẳng có gì lạnh lùng và nghiệt ngã hơn thời gian. Số lượng tác phẩm văn học viết về chiến tranh có thể nói là đồ sộ nhưng năm tháng chỉ còn một số đọng lại. Tôi tin, một cách chủ quan, rằng Lạc lối đến thiên đường của Đới Xuân Việt sẽ tìm được một bến đậu trong lòng độc giả. Ngoài giá trị tự thân mà tác phẩm đem tới, sự xuất hiện trong bối cảnh tưng bừng kỷ niệm 50 năm ngày thống nhất đất nước (30.4.1975-30.4.2025), 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19.5.1890-19-5-2025), 80 năm Quốc khánh (2.9.1945-2.9.2025) cũng đồng thời tạo xúc tác để tác phẩm cất cánh. Trên hết đó là giá trị của sự yêu thương. “Chỉ có tình yêu và khát vọng sống mới chữa lành được vết thương chiến tranh” – Đới Xuân Việt đã viết như vậy ở trang đầu như một thông điệp của tác phẩm và của tâm tình tác giả gửi tới độc giả. Tôi vui mừng thông báo với mọi người đây là cuốn tiểu thuyết rất đáng để trên bàn làm việc và trong tủ sách. Các bạn sẽ không thất vọng khi đọc nó.

Tp HCM, 5.2025

Cao Chiến

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm