- Truyện
- Giường bệnh số 13 | D. Hải
Giường bệnh số 13 | D. Hải
D. HẢI
Lá cờ bay phành phạch trong cơn gió biển thổi liên hồi. Trước mặt An là biển trời mênh mông cùng vài chú chim chao đảo cố gắp những con cá nhỏ ven bờ. Phía bên kia chiếc thuyền thúng, mọi người đang xúm lại xem mẻ cá trích tươi rói ánh kim còn đang nằm ngoi ngóp trong chiếc lưới của anh ngư dân vừa mới đánh bắt vào bờ.
“Cá tươi quá! Bán sao vậy chú?” – Cô xách giỏ nhanh nhảu hỏi.
“Năm chục ngàn một ký. Cá mới lên, tươi lắm cô!” – Anh ngư dân nhìn mẻ lưới cười hài lòng với thành quả của mình.
“Cá tui mua ngoài chợ có bốn lăm ngàn mà sao mua ở đây năm chục dữ vậy?”.
“Bè nậu ư, đúng rầu, cé ngừ te còn đeng dễy đènh đẹch tươi rấu dị thì phẻi khét con cé nằm im ngầu chợ chứ. Bè chê méc thì bè re chợ mua i. Nem ngèn của bè lớn qué” – Anh khách khác bai bải như cảm thấy bất bình dùm cho anh ngư dân.
“Thì tui hỏi vậy thôi chứ tui có chê mắc đâu!” – Cô hờn dỗi.
Như vừa đang xem hài, người mua cá cười nắc nẻ làm cho cô xách giỏ thêm đỏ cả mặt. “Quỷ sứ à!”, cô e thẹn như con gái mới lớn. Không khí nhộn nhịp hẳn, chẳng mấy chốc cá trong lưới đã bán sạch.
Thằng An đút chân xuống cát, ngồi im nghe nhỏ Vy nói về mấy bà trong công ty ức hiếp nó ra làm sao, bà sếp thì luôn tạo áp lực, bắt Vy phải làm nhiều việc. Quá mệt mỏi, Vy muốn nghỉ việc. Thằng An ngồi im như tờ, không gian hóa thành những quãng im lặng kéo dài.
“Cuộc sống nếu nhẹ nhàng quá thì sẽ không tạo ra cột mốc nào cả. Nếu mày mệt mỏi vậy thì hãy cho bản thân được nghỉ ngơi vài ngày rồi ra quyết định xem có nên tiếp tục hay không? Đừng để…” -
An không muốn quãng im lặng nối tiếp nhau.
Chưa nói hết câu thì điện thoại An reo lên, không gian vỡ ra, phá tan giọng nói đều đều của An để chèn thêm vài nốt nhạc mới từ bản nhạc không lời “Đồng thoại”.
“Alo. Có gì không má?”.
“Ông ngoại mày nhập viện rồi. Đang nằm ở
khoa cấp cứu, mắt trợn trắng rồi!” – Đầu dây bên kia hốt hoảng.
“Lâu chưa má? Bây giờ có ai ở trong bệnh viện không?” – Giọng An nghiêm trọng hơn.
“Còn thiếu dì Út nữa. Nhưng họ không cho vô. Rồi khi nào mày về?”.
“Để con xem rồi sắp xếp về sớm nhất có thể”.
Mẹ An cúp máy. Ông ngoại An đã không khỏe mấy tháng nay, đi phải chống gậy từ thời bị đột quỵ tưởng đâu đã về thế giới bên kia. May mà lúc đó bà Năm trong xóm lật đật chạy qua, nhét khăn vô miệng ngoại, cầm cây kim châm hết mấy đầu ngón tay với dái tai rồi nặn máu chảy ra nên ngoại mới thoát được án tử.
Lúc đó dượng Chín của nó đang ngà ngà say, nói với An: “Tưởng đâu ngoại mày giả bộ bệnh chứ, ai dè ổng bệnh thiệt à. Vậy mà tao tưởng…”. An im lặng, những dòng chữ cứ liên tục chạy dài trong đầu nó “Tao tưởng, vậy à, thế mà tao cứ nghĩ, à thì ra là vậy…”. Nó cười nhẹ một cách gượng gạo như để cho dượng nó biết rằng nó đã nghe những gì dượng nói.
Phòng khám – tranh sơn dầu – NGUYỄN NGỌC MAI.
An nhớ ông ngoại nói lúc nó đem dĩa thịt bò xào hành tây thơm phức lên bàn ăn, đó cũng là món ăn cuối cùng mà nó làm cho ngoại vì ông nói thèm thịt bò xào với hành tây quá mà không có đứa nào làm cho ăn. Hôm đó cậu nó đi mua, chẳng may lại trúng miếng thịt bò già, ai cũng nhai muốn sái hàm mà cổ họng thì từ chối không chịu cho miếng thịt trôi xuống.
“Có mấy đứa con trai thì không nhờ được gì. Còn mấy đứa con gái thì lấy toàn thằng chồng gì đâu. Tụi nó nói tao giả bệnh để bắt vợ tụi nó về chăm. Tao đuổi về hết, không cần đứa nào. Thà tao chết quách cho khỏe cái thân”. Vừa nói ông vừa nghiến răng.
An thấy đau, rồi nghĩ tới lúc mình già, chống gậy đi, có con cái như ông nói thì chắc là quặn thắt tim gan. Đang miên man với những suy nghĩ thì nhỏ Vy lên tiếng kéo An về thực tại: “Sáng mai tranh thủ về đi. Giờ tối rồi, mà bệnh viện cũng không cho vào nên về cũng không làm được gì, đi tối lại nguy hiểm”.
“Ừm, sáng mai tao sẽ về sớm”. An quên mất những điều mình đang nói lúc nãy với Vy vẫn còn đang dang dở.
8 giờ 45 phút, An có mặt tại bệnh viện, từ bãi giữ xe nó đi chầm chậm vào phòng chăm sóc đặc biệt. Khi đối diện với cái chết, nó thấy con người cũng bé nhỏ và yếu đuối như những con vật khác, ngã cái đụi rồi tắt thở, ai cũng sẽ bất lực trước một người đã bị ghi tên vào sổ tử thần.
Mẹ dắt An vào trong phòng mà ông ngoại đang nằm. Vừa bước vào cửa, cảm giác lạnh toát từ sống lưng chạy dọc lên cổ, lông tay nó dựng đứng, mặt trắng bệt. Căn phòng lạnh cóng, hàng chục người trần truồng, ốm yếu, có người gầy trơ xương nằm trên những chiếc giường đầy dây nhợ, máy móc chằng chịt. An bước đi chậm rãi, cố tránh đụng vào những chiếc giường đó.
Dừng lại tại giường có số 13 ghi bên trên. Chợt nhìn, An thấy ông thật lạ lẫm. Nếu như mẹ nó không nói đó là ông ngoại thì có khi nó cũng chẳng thể nhận ra ông. Ông nằm bất động trên giường, chiếc chăn mỏng dính được phát từ bệnh viện chỉ che bớt phần bên dưới, còn lại là hàng tá dây nhợ được gắn khắp người. Ống thở được đút thẳng vào miệng, lưỡi ông le ra ngoài cứng đơ, tím tái như ông thần giữ cửa thường đặt ở cửa ra vào các chùa. Chắc ông khó chịu với chiếc ống đó lắm nên đã cố tình đẩy nó ra khỏi miệng trong tuyệt vọng, An nghĩ, mắt nó đỏ ngầu.
“Mày thấy gì không? Ngoại mày nằm giường số 13 đó, ông nội mày hôm trước cũng nằm giường số 13. Tao không thích số 13, nó xui lắm!” – Mẹ An nói.
Mười ngày trước, An cũng đã sướt mướt để tang ông nội, nắm từng miếng đất rồi quăng xuống huyệt đưa tiễn nội về nơi an nghỉ cuối cùng. Ngày hôm đó trời mưa bay bay trong cái mùa nắng đốt cháy da thịt. Mọi người nói thầm chắc ông trời cũng buồn, đưa tiễn ông lần cuối. Có người thì thầm: Mưa vậy hên lắm, con cháu ăn nên làm ra.
An không tin số 13 xui như mẹ nói vì những lần thi được xếp vào ngồi ở vị trí số 13, điểm nó thường rất cao. Nó nghĩ đây chỉ là sự trùng hợp. Nó nhủ thầm rồi ngoại sẽ tỉnh lại.
Mọi người trong gia đình thống nhất với nhau đưa ngoại về nhà rồi thuê bình oxy cho ông thở. Vì ai cũng hiểu, người già cũng như trẻ, khi cận kề cái chết ai cũng muốn được về nhà, về quê hương nơi gắn liền với từng hơi thở, nơi có bình trà mỗi sớm mai nghi ngút làn khói ấm.
Mọi thứ đã được chuẩn bị đầy đủ, từ bình oxy đến cái mền, cái gối, đến cái giường xếp và cả góc tường. Nơi đó dành cho ông. Ông được mọi người bế cẩn thận qua giường, mấy dì đứng nhìn mà nước mắt giàn giụa. Bóng tối cũng bắt đầu bao trùm lấy khu xóm nhỏ, dì Chín lấy khăn lau sạch người ông. An đứng ngay góc cột, cầm cái khăn đã vắt ráo nước nhìn về phía chiếc giường.
“An, trước giờ ông ngoại thương mày nhất, ông gần đi rồi mày lấy khăn lau mặt cho ông đi!” – Bác Sáu nhìn về phía thằng An.
Thằng An bước tới bên ông rồi ngồi bệt xuống. Nó thấy ông nằm bất động, nhắm mắt như cái xác chết, nó tự hỏi ông còn sống không? Nó muốn đưa tay lên mũi ông để xác nhận một điều gì đó như trong mấy bộ phim mà nó hay xem. Nhưng nó không dám, vì nếu ông tắt thở thì nó sẽ chẳng còn hy vọng nào về việc ông có thể khỏe lại.
An lấy khăn lau hết mặt ông, vừa lau xong thì hai hàng nước mắt ông lăn dài xuống gối. Nó biết ông còn sống và vẫn có thể nghe những điều mà mọi người đang nói nhưng ông chẳng thể làm gì khác ngoài nằm im bất động. Mắt nó nhòa đi, nó thấy đau như có sợi kẽm gai riết chặt vào tim rồi kéo dài qua lồng ngực, riết hết tất cả những gì mà sợi dây ấy đi qua. Vội đứng dậy, nó chạy ra đằng sau như không để cho ai nhìn thấy mắt nó vì dì Tám nói đừng có khóc thì ông mới ra đi thanh thản được. Nói vậy chứ dì nó cũng trốn dưới nhà bếp khóc sưng cả mắt. Một lát sau, nó xin về nhà, mọi người hỏi nó không ở lại à, nó chỉ nói “Con mới về nên còn mệt lắm! Sáng mai con sẽ qua sớm!”. Trong màn đêm thăm thẳm, có người vừa đi vừa khóc.
Hai giờ sáng, đèn bàn thờ nhà An bỗng nhiên tắt rồi có lại, liên tục như thế cho tới lúc mẹ nó nói “Chắc ông ngoại mày đi rồi!”. Bình thường nó sẽ nói lại “Má mê tín quá đi!”. Nhưng lúc này nó chả buồn nói mà nằm im vờ như đang ngủ.
Hai tiếng sau, điện thoại nhá đèn liên tục, dì Út thông báo ông đã mất. Nhà nó vội đi qua. Mọi người đứng xung quanh ông, khóc lấy khóc để. Dì Chín như muốn ngã qụy xuống đất, dì Tám vừa lấy khăn lau nước mắt, miệng liên tục niệm A Di Đà Phật. Thằng An không kiềm nổi nước mắt, đứng ngay góc tường mặc cho ai có nhìn, nó cứ đứng đó và khóc.
*
Ba ngày sau…
Cậu nó bưng chén đèn cầy đốt dưới quan tài ông đập xuống đất như một nghi thức chuẩn bị đưa ông về nơi an nghỉ vĩnh hằng. Khi chén đèn cầy vừa kịp vỡ ra thành tiếng, cũng là lúc cái hy vọng mong manh về một phép màu nào đó sẽ xảy ra trong mọi người hoàn toàn phai mờ. Dì Chín ngất xỉu, mọi người chạy đến ôm chiếc quan tài nức nở.
An vẫn đứng đó, nhìn mọi người như kẻ không hồn. Phải chi lúc trước nó biết nghe lời hơn, không đi đánh nhau khắp đầu trên xóm dưới rồi bị người khác tới mắng vốn mỗi ngày làm ông phải đau lòng, phải chi nó chăm chỉ giúp ông làm việc nhiều hơn và phải chi nó có hành động yêu thương với ông dù chỉ là một lần. Trên gương mặt hốc hác ấy, hai dòng nước mặn chát cứ lăn dài, lăn dài.
Nguồn: Tạp Chí Văn Nghệ TP.HCM số 20