TIN TỨC

Kẻ cày mây thu và gieo trồng muôn dặm sao

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-23 06:58:22
mail facebook google pos stwis
1757 lượt xem

TUẤN TRẦN

(Cảm nhận tập thơ “Những đám mây mùa thu” của Trần Quang Khánh)

Khi trời trở lạnh, trải nghiệm thế giới thơ Trần Quang Khánh, tuy có những trang làm ta buồn “nẫu rục”: “Mùa xuân mặc định còn neo bến/ Nhưng mái tóc xưa đã rũ màu/ Sóng đã dạc dài trên nét mặt/ Tiễn mùa xa lắm đã quên nhau!”. Nhưng sau tất cả là nắng vàng mây trắng, những ấp iu, nồng đượm trở về neo đậu vào “hồn xanh biếc”. Lòng ta bỗng như được thắp lên một ngọn đuốc, không chỉ đủ ấm áp mà còn biết bao thúc giục: công tác, chiến đấu, yêu và khi cần được hi sinh cho tình yêu. Tất nhiên không ngoài tình yêu/ niềm tin ái quốc vô biên: Ta vẫn cứ vun mầm xanh sắc lá/ Để ngày mai xanh biếc mãi quê hương”.

Tiếng thơ đó được kết bện trên những “mô thức”: Trước hết và trên hết là tính “kỉ luật”. Văn chương cũng có “kỉ luật” ư? Có chứ! Đó là “ánh thép” trong “kết cấu trữ tình” để tạo ra nhịp điệu thời/ không nghệ thuật uyển chuyển/ nhu mềm trong giá trị cốt lõi (cốt chất)/ trong “khuôn đổ” ý/ tứ, tất cả thể hiện khúc chiết, rõ ràng. Đúng vậy! Tứ thơ trong thơ Trần Quang Khánh không “tàng hình” nó “sáng như ban ngày” run ngân và cử động tinh tế trong sự chặt chẻ nơi “khung khổ” cảm tình/ tính “logic” của “mỹ cảm”. Trên tinh thần đó, thơ Trần Quang Khánh không “chệch ray” khỏi bản chất của “chữ nghĩa”: Đôn hậu, trung chính… Viết là để “văn dĩ tải đạo – thi dĩ ngôn chí”. Mặc dầu, nghe nói thế giới văn chương nghệ thuật đã đi đến “rìa vực đương đại” nhưng ai dám không nói rằng bức tranh đậm mùi hoài cổ trong “Những đám mây mùa thu” đó không “sóng sánh” tinh thần đời sống hôm nay. Quyện trong “mong chờ”, “nhớ thương” gu vị tình người, tình đời. Một con người, luôn sống và khát vọng sống sao cho nghiêm chỉnh, chính đáng. Đó là cốt cách của người “quân tử”/ của một “hiền nhân”.

Với thể thất ngôn được dùng để họa “tiếng thu”, tác giả đã chạm khảm trong thơ cấu hình cảm quan hiện đại. Sự thanh nhã trên nền điển tích mà dạt dào, dư ba, phóng túng và ý vị của niềm vui riêng – chung nơi chính mình. Nghĩa là cái “cá tính”/ sự đề cao cái tôi tân thanh trong cấu tứ cổ điển: “Vội nghĩa mùa xuân đã nhạt rồi/ Bên hè lan kiếm cứ sắc tươi/ Vẫn là duyên phận mùa xuân cũ/ Gọi được niềm vui ở cuộc đời”

Sự huyền hòa kiến tạo nên thi ngôn đó là nhờ những “cơ duyên”/ “duyên cớ” nào? Bàn về xuất thân: Trần Quang Khánh sinh ra ở vùng đất nhân sử hiền triết, trong gia đình một giáo chức trung lưu. Song thân có cái sở học chuyên tinh và thành tựu được những điều lớn lao trong sự nghiệp giáo dục cùng cái chất phác hồn hậu, dũng cảm kiên cường của những người con/ con người sinh ra trên mảnh đất “nắng cháy đồng nung đá, mưa thối đất thối cát”. Lớn lên anh tồn tại với hai tư cách: Nhà giáo, người chiến sĩ cộng sản kiên trinh và cả hai tư cách đó đồng hòa nên “tư thái” âm thanh tiếng thơ như hôm nay:

“Hai mươi mười một (20/11) đắp chăn ngủ/ Nghe tiếng quân reo ở cuối trời/ Bụi phấn hòa trong làn khói phủ/ Nhịp đời phai nhạt. Giọt mưa rơi”. Bức tranh hồn thơ phơi trải theo chuyển biến của nhịp/ tiếng thời/ không. Đó là không gian tĩnh lặng trong giấc mơ, bất chợt có tiếng “quân reo”: như lan thấm, thức động, như dâng lên nỗi nghẹn ngào trong tâm trí về một thời hoa lửa không thể nào quên. Như cách “Ta mang màu áo lính/ Đã thấm vào thịt da/ Xanh như là cây đước/ In sắc bàng Trường Sa”. “Bụi phấn hòa trong làn khói phủ” tạo nên một tổng hòa ngân ngấn, dạt dào…vào cái run ngân sâu thẳm đang lan chảy trong nỗi bâng khâng của thời khắc lần hồi, thổn thức nhịp đập quá khứ. Kí/ ẩn ức đời lính những nỗi đau khắc khoải lẫn tâm sự lòng riêng “phấn là vôi mà vôi thì bạc” như đã trở về thấm thía bao thớ vỉa trực cảm đến độ kết tạo thành “giọt mưa rơi”, rụng vào trong tâm thức những chập chờn, mờ phai trong khoảnh khắc đang “yên ngủ”. Cách bẻ nhịp bằng dấu chấm ngang ngạnh giữa dòng đã cá tính hóa ngữ điệu thơ, làm nứt tách cú pháp để đong chứa cái bất định, ương ngạnh, lay chuyển, biến đổi, khó nắm bắt trong quá trình cảm xúc ùa ắp, lật dựng về “đay đả” hiện tại. Khoảnh khắc thảng thốt, giật mình, như thực, khi như mơ đôi bờ phân tách - hữu tri với quá khứ - rồi bay biến vào hư rỗng. Nhịp đời bước qua quá đỗi choáng ngợp, có một lực ép lên trái tim của thi nhân để kịp níu lại dư ảnh “Giọt mưa rơi”. Điều ngôn ngữ thơ kiến tạo ra ở đây là giới hạn bao chứa, thâu tóm của chính nó để “tình đời thắm chặt”.

Nhan đền tập thơ “Những đám mây mùa thu”, thoạt nghe, ta hiểu ngay về “hình tượng” trong nó. Vậy ngoài những điệu buồn man mác, ngoài những chiếc lá vàng đơn độc rụng, ngoài gió, mưa, chiều cuối năm và những cung đường tự tình thì còn có chi? Những “mật ngôn” những “tín hiệu” đã trở thành những “tín điều” nơi tiếng thơ để lại trong lòng người thụ cảm. Hơn tất cả, đó là mùa thu của “huy hoàng” của ánh mặt trời “chót gắt đớn đau”, “khoan hồng bao dung”, khi sôi thúc sức mạnh tiến quân quần hội mãnh liệt: Tổ quốc ở trong tim người chiến sĩ/ Người ra đi cùng người sống ôm ghì/ Dẫu có hóa thành muôn vàn sương khói/ Vẫn quyện vào sông núi chẳng chia ly”. Sống dậy bao “nông sâu dâu bể” cũng như quá khứ bất tử trường tồn của dân tộc Việt Nam: “Ngoái cổ nhìn lưng trời/ những hàng bia sáng chói”.

Mùa thu, mùa của độc lập sum vầy, ở đâu ta cũng nghe tiếng gọi người thân sau bao đêm dài ly tán. Mùa thu trong thơ của Trần Quang Khánh là sợi dây cố kết “hữu tình”: “Bước chân người không về mọi ngã/ Nhưng ý nghĩ đời theo gió xôn xao”. Nếu bước chân người trên mặt đất hiện thực dẫu không thể về như ngày đã bịn rịn cuộc chia hẹn ra đi. Thì còn đó, “chân lý” những “ý nghĩa đời” bất tử trong tiếng gọi thiên thu “quyện vào sông núi chẳng chia ly”. Trong cả tập thơ “nghiêng nghiêng” tiếng gọi giục lòng, tiếng núi sông ngàn năm cuộc hành nhân/ quân thiêng liêng. Tiếng người từ miền cổ lão như những “tiếng sét hóa màn đêm lay động/ Tháng tư ơi rọi sáng cả ngàn đời”.

Cảm xúc đời lính lóe rạng trong thơ những dòng máu loang nước mắt. Những niềm cảm dũng bi hùng lẫn những giọt nước mắt hoa niên tuổi trẻ: “Anh gục nằm ôm khẩu súng trong tay/ Ôm mảnh đất máu đỏ loang đầy” nhưng “Ta giọt nước hòa bao giọt nước” xin ngưng khóc “Để mùa xuân xanh biếc mãi quê hương”. Khi ta “phá ra” cấu trúc dòng thơ “vô tình” phát hiện sự sáng tạo tuyệt vời của bố cục. Thơ rất tình nhưng như là những dòng tâm sự dễ dàng diễn xuôi một cách nhẹ nhàng theo chuyển động trào dâng thao thiết. Việc ý thức chữ nghĩa trong quá trình tạo tác đã giúp từng dòng thơ, khi đứng độc lập vẫn đã hoàn chỉnh về cả ngữ lẫn nghĩa cùng sự “lấp lánh” của tầng lớp ảnh tượng. Các thủ pháp tượng/ tạc hình và thi đề quy phạm trong “cổ thu” được sử dụng tài tình, chừng mực và hiệu quả. “Thơ thu” thường là “thư” của “những người muôn năm cũ” không tránh khỏi những điều “sến súa”, nếu không chừng sẽ trở nên “cắp tứ tráo chữ”. Với Trần Quang Khánh điệu cử mùa thu trong thơ cũng lắm hiu hắt, ngậm ngùi nhưng kết níu và ăn bắt chặt chẻ với hơi thở đương đại và gắn liền với đời sống từng trải qua của chủ thể cảm xúc nên sự “đoái thương” trong thơ đều hướng tới “vị lai” những ánh nhìn tỉnh thức, không còn tinh thần mang móc quá ưu sầu nỗi bồn chồn quá khứ “Để cái xanh xưa lại có chồi” hay “Giai điệu mùa xưa còn vọng lại/ Mang theo sắc mới những mùa xanh”.

“Những đám mây mùa thu” là chiếu thơ trải rộng với nhiều thể - nghiệm hình thức: Lục bát, tứ, ngũ ngôn, bảy, tám, mười hai chữ, cách tân hình thức… Về thi cảm, thi hứng có cổ, bán cổ điển, tân hiện thực nhưng rất “chủ nghĩa”. Cái bang giao tình - người đẹp nhã, nghiêm ngắn và chính đáng. Về thi liệu mang móc, quá khứ, hiện đại: Có điển tích đông tây, những chuyện huyền sử Mỵ Châu, hiện thực số đỏ hay Vũ đại thôn. Tất cả được cài găm vào chữ nghĩa một cách đầy “tinh hoa”.

Về mảng tình thi là sự giản dị, động lay, tinh thần ăn bắt tế vi giữa con người và tự nhiên: “Đời được mấy mùa trong đắm say/ Xuân đi chưa trọn được vòng tay/ Heo may đã giục làn mây bạc/ Bỡn ánh vàng phai giữa tháng ngày”. “Bỡn” mô tả sự thể động lay, chuyển biến hơn là trạng thái tĩnh tại của màu sắc. “Bỡn ánh vàng phai” như ẩn dụ về năm tháng tĩnh lặng, thời gian phai mờ…

Thơ mở cửa vào tâm hồn thanh thoát, nhẹ nhàng: Gieo chi sợi nắng, sợi mưa/ Để ai ngơ ngẩn giữa mùa thu sang”. Những ánh nhìn trìu mến đón lấy cảnh tượng giao hòa: “Ta trong nhau với mùa thu thương nhớ/ Của mùa xuân dù buốt lạnh trong lòng”. Trước những vẻ đẹp như nhiên quá đỗi hữu tình ấy, một tấm lòng dịu dàng, biết nâng niu, giàu che chở giăng bày những rung rinh, mơn mỡn ban mai. Vươn mọc lên những tình đời, tình người: “Ngập chìm trong ánh vàng thu chín/ Ai bảo men xưa đã cuối mùa/ Khuấy động đáy hồ soi đỉnh núi/ Để nghìn thu vẫn cứ lên ngôi!”.

Quả đúng là “Thi trung hữu họa/ thi trung hữu nhạc”. Quả đúng là “Văn lo vận nước văn hóa võ/ Võ thấu lòng dân võ hóa văn”. Tính trữ tình trong cốt lõi “cứng cáp”, “bền bỉ”, “kiên trinh” thể hiện sắc thái “rừng gần đậm nét/ non xa nhạt màu” trong từng con chữ. Đó là mùa thu hòa bình trong thơ Trần Quang Khánh, mùa thu hòa bình được dệt bện bởi những dư âm “đớn đau” thao thiết: “Chiều!/ Nắng vàng đầu thu gay gắt/ Lá vàng nhẹ rơi/  Chiều nay/ Tiếng hạc gõ thinh không/ Đẩy trời cao không tưởng/ Đưa hồn ai phiêu diêu”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm