TIN TỨC

“Kẻ sĩ thời loạn” một diễn giải về lịch sử và kẻ sĩ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-07-06 12:07:23
mail facebook google pos stwis
1470 lượt xem

NGUYỄN HOÀI NAM

Tiểu thuyết "Kẻ sĩ thời loạn" đã chuyển tải bức tranh toàn cảnh về chính trị xã hội thời Lê mạt, một thời đại đầy biến động trong tiến trình lịch sử Việt Nam.

Cách nay trên mười lăm năm, năm 2008, lấy cảm hứng từ việc đọc những nghiên cứu về loại hình học tác giả văn học trung đại Việt Nam của học giả Trần Ngọc Vương, và công trình Việt Nam thời Tây Sơn, Lịch sử nội chiến 1771-1802 của sử gia Tạ Chí Đại Trường, tôi đã viết một tiểu luận về Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh (1741-1788), đăng trên chuyên đề An ninh thế giới cuối tháng của báo Công an nhân dân, lấy tên Cánh chim bằng giữa trời loạn. Bài viết có đoạn kết: “Loạn thế xuất anh hùng, thời đại loạn lạc đã sản sinh Nguyễn Hữu Chỉnh, và đến lượt mình, Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đã kịp để lại dấu ấn đậm trên gương mặt thời đại. Mô hình nhân cách mà Nguyễn Hữu Chỉnh tự thể hiện, tự bộc lộ bằng chính cuộc đời mình, đó là kiểu con người vượt thoát ra ngoài sự ràng buộc của những tiêu chí thông thường, con người hành động với khát vọng tìm kiếm mọi con đường giải phóng mọi năng lực và tham vọng của mình - con người tự do. Chung cục không may mắn của cánh chim bằng giữa trời loạn này không có nghĩa là sự lựa chọn ấy sai lầm, mà chỉ có nghĩa là tầm cỡ tài năng ấy chưa đủ cho một sự lựa chọn như vậy mà thôi. Để kết lại bài viết nhỏ này, xin được nêu ra đây một suy nghĩ của cá nhân người viết: cái bi kịch của sự lỡ dở mà cuộc đời đầy sóng gió của Nguyễn Hữu Chỉnh bày ra trong lịch sử, đó là mảnh đất tuyệt vời cho các nhà tiểu thuyết khai thác. Vì, hơn cứ một thể loại nào khác, tiểu thuyết thực sự phù hợp với những điều không bao giờ hoàn kết. Nhưng không hiểu tại sao cho đến giờ phút này, các nhà tiểu thuyết lịch sử của chúng ta vẫn tỏ ra thiếu mặn mà với nhân vật lịch sử đầy hứa hẹn Nguyễn Hữu Chỉnh?”

“Lời kêu gọi” ấy, có thể nói như vậy, hoặc là không đủ sức mạnh dẫn dụ, hoặc đơn giản là không được nghe đến, nên nó dần trôi vào im lặng và lãng quên. Bất đồ, mười năm sau, vào hạ tuần tháng 4 năm 2018, trong một lần tao ngộ, nhà văn Vũ Ngọc Tiến thông báo với tôi rằng ông vừa mới hoàn thành tác phẩm Kẻ sĩ thời loạn, một cuốn tiểu thuyết lịch sử về thời cuối Lê, lấy Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh làm nhân vật trung tâm. Viết xong ông mới vô tình đọc được bài viết của tôi, thấy “xem ra cả hai có nhiều điểm chung khi nhìn nhận con người đầy phức tạp, rất khó đoán định này”. Và đấy, chính là cơ duyên khiến tôi được đọc Kẻ sĩ thời loạn của Vũ Ngọc Tiến ngay khi nó còn ở dạng bản thảo.


Nhà văn Vũ Ngọc Tiến - Ảnh: Hội Nhà văn Việt Nam

Thật ra thì khái niệm “tiểu thuyết lịch sử” - tức tiểu thuyết về một “quá khứ xa”, như trong quan niệm mang tính phổ biến - là không đủ để ôm trọn Kẻ sĩ thời loạn của Vũ Ngọc Tiến. Tác phẩm bộn bề hơn thế. Vì ở tiểu thuyết này, ngoài truyện kể về thời Lê mạt với nhân vật trung tâm là Nguyễn Hữu Chỉnh, còn có truyện kể về thời hiện tại với cặp nhân vật chính là nhà di truyền học Duy Thiện và bà Hoàng Lan, hồng nhan tri kỷ của ông. Hai mạch truyện kể gắn với nhau theo cấu trúc truyện lồng trong truyện: Duy Thiện của thời hiện tại là người viết cuốn sách kể lại lịch sử cuộc đời của cụ tổ mình, tức Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh.

Cuốn sách ấy chiếm chín chương, từ chương 3 đến chương 11, trên tổng số mười hai chương của Kẻ sĩ thời loạn. Nhìn ở phương diện mô hình hóa tiểu thuyết, không quan tâm đến “lịch sử” hay không “lịch sử”, thì cấu trúc truyện lồng trong truyện và kiểu nhân vật - nhà văn mà Vũ Ngọc Tiến phô diễn ở đây không hề là một độc sáng đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại.

Trước đấy, ít nhất, ta đã chứng kiến những điều này qua Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, “Made in Vietnam” của Thuận, Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh, Khải huyền muộnCơ hội của Chúa của Nguyễn Việt Hà, và đương nhiên, không thể không kể đến Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.

Tuy nhiên, có một điểm khác: nếu các tác giả của những tiểu thuyết kể trên bị hút theo mỹ học của mê cung văn bản, của cái mờ nhòe mù mịt rối lẫn giữa các giọng kể, các mạch truyện trong cùng một tác phẩm, thì hiệu quả tự sự mà Vũ Ngọc Tiến muốn chiếm lĩnh trong Kẻ sĩ thời loạn lại là tính mạch lạc và sự sáng rõ. Để làm gì? Để hiện thực hóa kiểu tiểu thuyết giáo trình (Lesson novel) của văn chương Mỹ và phương Tây hiện đại mà ông vốn rất tâm đắc, nghĩa là dùng tiểu thuyết như một hình thức “mềm hóa” cho việc chuyển tải một giáo trình hoặc một lý thuyết chính trị học, xã hội học, kinh tế học, quân sự học, thậm chí sinh thái học... nào đó.

Ở đây, trong Kẻ sĩ thời loạn, cái được chuyển tải chính là bức tranh toàn cảnh về chính trị xã hội thời Lê mạt, một thời đại đầy biến động trong tiến trình lịch sử Việt Nam, một thời đại được đặc trưng bằng sự phân liệt và tranh chấp mạnh mẽ về quyền lực giữa các thế lực quân sự: Lê - Mạc, rồi Trịnh - Nguyễn, rồi cái thế chân vạc Trịnh - Nguyễn - Tây Sơn. Một thời loạn. Được/bị hấp dẫn bởi ý niệm “giáo trình”, nên mặc lòng, từ giọng kể ngôi thứ ba hay chuyển dịch vào giọng kể của các nhân vật, nhà văn Vũ Ngọc Tiến vẫn luôn rất cặn kẽ khi trình bày từng diễn biến thời cuộc, từng bước tiến bước thoái, từng đoạn trồi sụt trong tương quan lực lượng giữa các bên, từng trận đánh, từng khúc rẽ mang ý nghĩa tác động đến kết quả toàn cục. Thậm chí, ngay cả những ngoại đề như việc xây dựng Hoàng thành và phủ Chúa (Trịnh) cũng được ông kể hết sức chi tiết, kỹ càng như trong một cuốn giáo khoa thư lịch sử.

Nhưng lịch sử vốn chẳng là gì khác ngoài là lịch sử của những diễn giải về lịch sử (F. Nietzsche: Lịch sử như nó vốn có là một cánh đồng lúa mì, lịch sử như ta biết (qua sự diễn giải) là những chiếc bánh mì). Bởi thế, dẫu có đặt mục tiêu vào một giáo trình lịch sử thì Kẻ sĩ thời loạn của Vũ Ngọc Tiến cũng chỉ là diễn giải của riêng ông, trong tổng số những diễn giải lịch sử khả thể, về thời Lê mạt. Diễn giải ấy tập trung ở nhân vật Nguyễn Hữu Chỉnh, người mà theo các nguồn sử liệu khả tín hiện có, luôn phải chịu những đánh giá rất nặng từ phía những người sống cùng thời. Vũ Văn Nhậm từng nói với Nguyễn Huệ khi Nguyễn Hữu Chỉnh tham mưu cho Nguyễn Huệ đem quân đánh ra Thăng Long: “Kẻ kia lấy thân phận người tôi trốn tránh mà về đầu hàng với ta, trong bụng chỉ muốn được hả lòng với nước cũ, nên nhờ uy lực của ta để thành công” (Khâm định Việt sử Thông giám cương mục). Hay như Dực Tôn hoàng đế của nhà Nguyễn, tức vua Tự Đức, khi đọc sử đến đoạn Lê Chiêu Thống phải dựa vào Nguyễn Hữu Chỉnh để giữ yên ngai vàng: “Tình thế đã đến thế này, còn cứ nương tựa vào Chỉnh là thằng giặc tráo trở, lật lọng, khác nào chất củi lên giàn lửa thì còn phút nào yên được” (Sđd). Hay như lời hai viên Nội hàn của vua Lê trong “Hoàng Lê nhất thống chí”: “Chỉnh là hạng người ý nghĩ cực kỳ hiểm độc, bụng dạ quá ư tàn nhẫn, mưu mô hết sức sâu sắc, giả trá rất đỗi khôn ngoan, mà ứng biến thì mau lẹ tuyệt vời. Con người ấy thực là một kẻ gian hùng ở đời loạn”. Nếu xét từ hệ quy chiếu Nho giáo với những tín niệm thép về chữ “trung”, chữ “nghĩa”, trước những quy kết kể trên, hiển nhiên Nguyễn Hữu Chỉnh đã bị coi là một trong những gương mặt khả ố nhất của lịch sử Việt Nam thời trung đại.

Do vậy, diễn giải lịch sử của Vũ Ngọc Tiến trước hết là sự chiêu tuyết cho Nguyễn Hữu Chỉnh, và có thể thấy, đó là sự chiêu tuyết trên chính những nguyên tắc Nho giáo. Trong Kẻ sĩ thời loạn, nói đúng hơn, trong cuốn sách mà nhà di truyền học Duy Thiện viết để kể lại cuộc đời của cụ tổ mình, Nguyễn Hữu Chỉnh không hề là kẻ gian hùng, người phản phúc, lật lọng. Ông bỏ Trịnh theo Tây Sơn, đưa quân Tây Sơn ra đánh Bắc Hà, rồi lại bỏ Tây Sơn để diệt Trịnh phò Lê, nghênh ngang một cõi cho đến lúc bị Tây Sơn tận diệt, tất cả những quyết định ấy với Nguyễn Hữu Chỉnh đều là quyết định ở thế chân tường, là ngộ biến thì phải tòng quyền, không còn cách nào khác.

Tác giả đã hơn một lần cắt nghĩa về ý chí quyền lực và niềm khao khát tạo lập thân danh với đời của Nguyễn Hữu Chỉnh: ông nhập thế, thoạt tiên chỉ mong tìm được minh chủ để cống hiến toàn bộ tài năng và những phẩm chất cá nhân hơn người của mình. Nhưng không có minh chủ, hoặc có nhưng không xứng đáng, hoặc xứng đáng nhưng ông lại không được tin dùng.

Những sự cắc cớ ấy cứ lần lượt diễn ra, để rồi Nguyễn Hữu Chỉnh phải đi đến quyết định chung cục: ông sẽ tự mình làm minh chủ cho chính mình, không phụ thuộc bất cứ kẻ nào, tự mình trở thành một quyền lực dưới gầm trời này, tự mình thống nhất sơn hà, làm nên nghiệp lớn. Không phải để thỏa mãn cái nhu cầu được chi phối vận mệnh của muôn người trong thiên hạ, mà là để phụng vụ hết mình cho sự nghiệp “vì dân”. “Vì dân”, có thể nói, chính là tư tưởng xuyên suốt, là cái đích quan trọng nhất đời của Nguyễn Hữu Chỉnh, và cũng là hạt nhân trong sự tạo thành nhân cách “kẻ sĩ” nơi ông. Nói cách khác, đặt tư tưởng “vì dân” vào Nguyễn Hữu Chỉnh, nhà văn Vũ Ngọc Tiến không những đã thực hiện một diễn giải khác về nhân vật lịch sử đầy phức tạp và rất khó đoán định này, hơn thế, ông còn tái kiến tạo một Nguyễn Hữu Chỉnh như hình mẫu cho “kẻ sĩ thời loạn” theo quan niệm của riêng mình: đó là người trí thức (Nho giáo) lập thân giữa cảnh đời biến loạn đảo điên, kẻ đã biết buông bỏ sách vở thánh hiền và những trầm tư đạo lý để trở thành con người hành động trong thực tế, hành động liên tục, quyết liệt, với một sự kiên trì hiếm thấy, một lòng dũng cảm vô bờ, một niềm đam mê cháy bỏng, hành động như một hy sinh đến cùng để đất nước được thái bình, muôn dân được yên ấm.

Trong Kẻ sĩ thời loạn, Nguyễn Hữu Chỉnh còn được soi rọi từ nhiều mối quan hệ với các nhân vật khác - đặc biệt là với nhân vật Nguyễn Huệ - theo nhiều chiều thời gian, cả đồng đại và lịch đại. Không khó để nhận thấy thời hiện tại ở đây đã hiện diện như một hình đồng dạng, hoặc một phiên bản của thời quá khứ - lịch sử tái lặp - với một vài chỉnh sửa nho nhỏ. Đây cũng là một thời loạn với tất cả những đặc trưng của nó: quan tham lại nhũng hoành hành, công lý bị chà đạp, pháp luật bị coi thường, người có thực tài bị dìm dập để cho kẻ cơ hội được ngạo mạn ngoi lên, dân lành bị bóc lột và hành hạ đến tận cùng, lòng người ly tán, tiếng cười đắc thắng của đồng tiền đã lấn át tiếng nói yếu ớt của lương tri.

Ở cái thời loạn hiện đại này, nhà di truyền học/kẻ sĩ Duy Thiện và các bạn của mình dĩ nhiên không thể thực hiện những công việc mà cụ tổ Nguyễn Hữu Chỉnh đã thực hiện: chiêu binh mãi mã, rèn kiếm luyện quân, sẵn sàng xông pha chiến địa để tranh hùng cùng các thế lực quân sự cát cứ khác. Nhưng tâm thế và mục tiêu hành động của họ thì không khác: đó là “vì dân”. “Vì dân” nên họ chấp nhận dấn thân vào một cuộc chiến không cân sức với tập đoàn tham nhũng họ Trịnh ở tỉnh H, những “ông vua con” nhân danh cán bộ đầy quyền lực, những kẻ “ăn hết của dân không chừa một cái gì”. “Vì dân” nên họ sẵn sàng chịu đựng mọi bầm dập về tinh thần và thể xác, thậm chí cả tính mạng, để tìm kiếm, tập hợp bằng chứng tố cáo tội ác của bè lũ quan tham, đặng trả lại danh dự và công lý cho những người dân thấp cổ bé họng. Nếu Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh “vì dân” đến tận lúc bị tứ mã phanh thây, thì Duy Thiện cháu ông cũng “vì dân” trong cả giấc mơ bất chợt sau bao năm tháng quằn quại trong bệnh viện tâm thần. “Vì dân”, với kẻ sĩ ở cả thời này và thời kia trong tác phẩm, đó không phải là khẩu hiệu, mà là một sự đặt cọc bằng máu.


Tiểu thuyết "Kẻ sĩ thời loạn" của nhà văn Vũ Ngọc Tiến - Ảnh: PN

Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, tự sự lịch sử (tiểu thuyết, truyện ngắn) luôn nổi lên như một khuynh hướng sáng tác rất mạnh vào những thời điểm mang tính bản lề của tiến trình lịch sử xã hội, như giai đoạn 1920-1940 hay giai đoạn từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Đó là những thời điểm nước Việt Nam từ giã một môi sinh cũ để bước vào một môi sinh mới, mang tính quốc tế hóa rộng hơn, đa dạng và phức tạp hơn. Cuộc cọ xát quốc tế ấy đặt ra nhiều câu hỏi bức thiết, buộc người Việt Nam phải tự nhìn lại, tái phát hiện và tái định vị căn cước dân tộc của mình.

Nhiều nhà văn đã quay về, đào sâu vào những vỉa tầng hồi ức trong quá khứ là vì thế. Có thể kể ra ở đây vài cái tên: Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Quang Thân, Hoàng Quốc Hải, Võ Thị Hảo, Thái Bá Lợi, Lưu Sơn Minh, Trần Thanh Cảnh, Thiên Sơn, Nguyễn Hữu Nam, v.v... và không thể thiếu Vũ Ngọc Tiến (trước đấy ông cũng đã có hai tiểu thuyết lịch sử đáng kể là Sóng hận sông LôQuỷ vương). Có thể nói, tìm câu trả lời cho hiện tại ở quá khứ đã thực sự là một hướng đi khả thi. Khi ấy, lịch sử được trưng dụng bằng nhiều cách: thêm vào, làm cho rõ hơn, phản biện, tái diễn giải, thậm chí tái kiến tạo. Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh trong tác phẩm Kẻ sĩ thời loạn của Vũ Ngọc Tiến, theo tôi, thuộc về kiểu nhân vật lịch sử được tái kiến tạo. Người đọc có thể sẽ phải tranh luận khá nhiều về tư tưởng “vì dân” của nhân vật này, nhưng không thể phủ nhận đấy chính là một đòi hỏi đau đớn của thời hiện tại, của một xã hội dân sự mà quyền công dân của nhiều bộ phận cư dân còn chưa được tôn trọng đúng mức.

Nói lịch sử cũng chính là hiện tại, là vì thế.

Nguồn: Văn nghệ điện tử

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm