TIN TỨC

Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2024-10-16 20:25:44
mail facebook google pos stwis
959 lượt xem

Nguồn:

Nhà văn KAO SƠN

Năm 2017 Nguyên Hùng đã nhặt nhạnh, tìm kiếm tới hàng ngàn mảnh rời rạc rồi sàng lọc, sắp xếp chúng lại cho khả dĩ có thể qua đó phần nào lột tả được dù chỉ một phần nhỏ gương mặt 102 người văn. Và anh gọi đó là những mảnh ghép văn nhân. Lần này là “81 ký họa thơ”.  Nghĩa là cũng như lần trước, Nguyên Hùng dùng thơ để vẽ chân dung bạn văn. Mục đích vẫn là để tri ân, tri âm, tri tình với những người mà anh yêu mến.

“Đây chưa phải là tập hợp những nhân vật tiêu biểu được chọn (trong số hàng ngàn nhà văn nhà thơ Việt Nam) mà chỉ chỉ gồm các phác họa về những tác giả thân quen hoặc những tên tuổi mà tôi được đọc hoặc ít nhiều hiểu về họ và đem lòng quý mến”. Bên cạnh đó anh cũng nói rõ, ưu tiên cho những nhà văn nhà thơ (kể cả người đã mất hay còn hoạt động) trong lĩnh vực quốc phòng, lực lượng quân đội, vũ trang nhân dân… đồng thời khiêm tốn: “Tác giả coi tác phẩm này như một cuốn Kỷ yếu nho nhỏ và hy vọng nó có thể giúp bạn đọc biết thêm hoặc nhắc nhớ về tác phẩm của các nhà văn nhà thơ…”. Thế thôi. Rất rõ ràng.

Hai lần với hai tác phẩm có thể coi là giống nhau cả về Chủ đề, Mục đích và Nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt. HAI TRONG MỘT - Sẽ là khó nếu như non tay với cảm giác trùng lặp. Nhưng Nguyên Hùng đã vượt qua. Anh viết cẩn trọng hơn và dùng từ “ký họa”. Vẫn là chân dung nhưng ở dạng ký họa. Nghĩa là chỉ chọn lấy những đường nét cơ bản nhất, có ý nghĩa nhất, cô đọng nhất và tập trung vào cái Thần thái là chính. Không cần phải bày hàng. Không cần tốn nhiều bút mực để mô tả, dựng dã. Dẫu vậy, đã gọi chân dung thì phải giống. Phải nhìn ảnh, nhìn họa mà thấy người. Viết, dùng chữ để vẽ chân dung, một chân dung theo đúng nghĩa đen của nó, lại càng không dễ. Bởi cái chân dung ấy không thể nhìn bằng con mắt thường mà phải bằng trái tim. Dùng trái tim để nhìn trái tim và rồi để vẽ một trái tim. Trái tim không cùng nhịp đập thì vẽ nhau là không trúng, không giống. Có thể “đẹp” hơn nhưng ít giá trị. Mặt khác, nếu chỉ là ký họa lại không thể dùng tới quá nhiều đường nét, màu sắc. Thế thì cần rất nhiều một dồn nén, một chọn lọc tinh xảo.

Mỗi con người mang một số phận bí ẩn. Để nhận diện được họ một cách chân xác hoàn toàn không hề dễ. Khoa học có cách để giúp các nhà quản lý định danh gắn chip, nhận diện khuôn mặt, thậm chí có thể quản lý mọi hành vi của mỗi cá thể, nhưng để biết họ nghĩ gì thì không. Mà nghĩ lại là thuộc tính người cơ bản nhất. Với các nhà văn, các nghệ sỹ lại càng khó. Bởi mỗi người trong số họ đều là những vì sao cô đơn với hành trình riêng biệt không thể định danh. Cho dù vănngười. Đã có không ít những văn nghệ sỹ mà hành động sống, những biểu hiện bên ngoài của họ khác xa với tác phẩm mà họ sáng tạo nên. Bởi tác phẩm chứa đựng lòng mong mỏi, khao khát vươn tới chứ không đơn thuần là biểu hiện hiện tại. Cái bản thể của mỗi văn nghệ sỹ chứa trong nó một con tim luôn cựa quậy, luôn trăn trở với bao nênkhông nên. Muốn không muốn. Cùng đó là mơ ước. Còn phải, phải thế nọ, phải thế kia lại là ý chí, sản phẩm được hình thành từ kinh nghiệm, từ du nhập kiến thức của bộ não. Nhìn ra được, vẽ được cái “hồn Trương Ba” ẩn bên trong lớp “da hàng thịt” của mỗi người văn mới khó nhưng cũng là tuyệt nhất.

Chất liệu là tên các tác phẩm tiêu biểu, những câu thơ hay của “người mẫu”. Nhưng “khó” thì tất nhiên là rất khó. Với các nhà văn, nhà thơ lại càng khó. Văn là người. Ai cũng bảo thế. Văn của họ bày ra bằng giấy trắng mực đen, giữa thanh thiên bạch nhật, chả cần kính lúp cũng nhìn rõ từng dấu chấm phảy, chấm than, chấm… lửng lơ… Vậy mà… Nói là cứ lấy những tiêu đề tác phẩm, câu thơ nổi tiếng… của họ rồi ghép, khéo léo chút là được… thực không hề dễ. Phải “biết” nhau lắm mới làm nổi. Biết ở đây có nghĩa là đã từng quen thân, đã từng tâm tình chia sẻ. Hay chí ít cũng đã đọc nhau nhiều, thậm chí “phải lòng” những tác phẩm của nhau. Đọc nhau, hiểu cái căn cốt của nhau qua từng câu chữ. Và một điều quan trọng: Dù là một nhà thơ “chính hiệu, có nhãn mác, có thương hiệu” và dùng thể loại thơ để bày đặt, lắp ghép hay thay cho cây cọ, nhưng Nguyên Hùng không “làm thơ”, không “sáng tác” về họ theo nghĩa đen của từ này. Anh tôn trọng sự việc như khi viết một bút ký. Tất cả đều lấy từ chất liệu chính là tác phẩm của “người mẫu” nhưng được chọn lọc rất công phu. Giống như người họa sỹ theo trường phái sắp đặt đứng giữa ngổn ngang những đồ vật bắt mắt. Và cũng lại giống như người thợ dùng những chất liệu thô mộc để tạo bức tượng. Nhưng cát, xi măng, sỏi đá hay thạch cao, sắt thép gì thì cũng phải cái nào ra cái nấy. Không tạm bợ, vá víu. Không vay mượn. Không quàng qué cho xong. Nghĩa là tất cả đều được sàng sảy kỹ lưỡng. Cũng là đồ vật, chất liệu chứa trong bờ bãi ấy, quặng mỏ của vùng đất ấy nhưng dù có lóng lánh, bắt mắt đến mấy nhưng nếu không hợp với ý đồ, công việc thì dứt khoát không dùng. Nhiều người mẫu có lượng tác phẩm được liệt kê ra là khá nhiều nhưng, như Nguyên Hùng đã nói, khi đó, những liệt kê ấy chỉ có tác dụng làm một thông tin trong “cuốn kỷ yếu mini”. Còn chân dung về họ có khi lại chỉ được khắc họa bằng một vài nét cọ, nhát đẽo, dăm ba con chữ tiêu biểu. Ngắn nhưng nói hết được ý, lột tả hết được thần tướng, bày tỏ hết được nỗi lòng… thế là OK.

Có những bài người đọc đọc lên và rồi quên những câu chữ in nghiêng trong đó không còn là tên tác phẩm của người mẫu nữa mà là câu thơ, là tình của Nguyên Hùng rót vào. Ngay bài đầu tiên khi dựng chân dung nhà thơ Nguyễn Bính đã có cảm giác như vậy. Hoặc là Nguyễn Bính linh thiêng đã “tri bách dư niên hậu” sẽ có gã khùng Nguyên Hùng nào đó dùng những chữ của mình để vẽ chân dung mình chăng? Chi tiết ở Huế khi tết đến, nằm suông nhớ nhà “thuốc lào hút mãi người ra khói” trong thơ Nguyễn Bính được một lần nữa tái hiện “Ông lão mài gươm phun bã khói/ Một mình làm cả cuộc phân ly”… thì... thật giỏi. Nó không chỉ gói được cái bệnh nghiện thuốc lào ngày càng nặng, hút đến nuốt hết khói, chỉ còn “bã khói” của người mẫu. Kèm đó là tính cách sống ngang tàng của kẻ quân tử sinh bất phùng thời. Rồi cả cách bỏ hạ giới ra đi, một mình cưỡi mưa gió về giời chả giống ai của Nguyễn Bính nữa. Cô đơn một đời và cô đơn đến chết. Cách sống và cách chết của một con đại bàng.

Với Hoàng Cầm lại như một truyện ngắn, một câu chuyện về đời riêng người mẫu. Có Kiều Loan với bao niềm vui sướng / Vẫn lên đường tìm mãi lá diêu bông. Lấy ngay tên bài thơ nổi tiếng nhất của Hoàng Cầm để vẽ chân dung ông, cuộc đời riêng và cả tính “đa tình” của ông.

Văn Cao: Tự lúc nào trong âm thầm gác tối / Buồn tàn thu ám vận suốt một đời? Một phác họa mà khái quát tổng kết được cả đời người trong một câu thơ. Hé mở định mệnh. Thế thôi. Thế là đủ.

Hoàng Cát:  Một chân mất bởi chiến tranh/ Một chân còn lại ông Lành bẻ đôi... Tưởng đâu thanh thản cuối đời…/ Mà sao khổ nạn cõi người chưa buông... Là kể, là liệt kê. Như một khúc trong một bút ký ngắn.

Lưu Quang Vũ: Có phải vì buông lời ông không phải là bố tôi/ Đành ngậm ngùi dắt yêu thương rời cõi tạm? / Người trong cõi nhớ ơi, ai là thủ phạm/ Để công lý được đòi bất chấp những chiếc ô? Một nghi án được nêu lên từ mấy chục năm không lời giải được nhắc lại như một trăn trở một day dứt không nguôi. Ngầm nói đến những bất trắc vô thường mà những văn nghệ sỹ chân chính phải đón nhận. Sinh nghề tử nghiệp là vậy.

Hoàng Nhuận Cầm lại là một lối chiết tự tinh nghịch: Vẫn tỉ tê thơ tuổi hai mươi / đằng sau cánh cửa /Để nhuận vợ mấy lần vẫn cầm tuổi hoàng hôn.

Và như vậy, sự trân trọng chiết xuất từ tấm lòng mến mộ, cảm phục và yêu quý của Nguyên Hùng với đối tượng đã được bộc rộ rất rõ. Có câu thơ như đúc kết cho một đời người, đời văn. Có câu lại như một ám chỉ, một nhắc nhớ đến một sự cố nào đó mà người mẫu từng bị hứng chịu.

Có một khác biệt đáng chú ý. Khi viết về chân dung một vài nhà văn có tên tuổi khá nổi đình đám (ví dụ Huy Cận, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh…) một số người thường đưa ra các nhận định, có thể là khen hoặc chê. Điều này thuộc về quyền của người viết khi họ thể hiện đúng theo cảm nghĩ, cách nhìn nhận của mình. Đúng sai tùy thuộc trình độ, góc đứng trong hệ quy chiếu riêng và hoàn toàn chấp nhận được. Nhưng nếu lại vì một thiên kiến có chủ ý, hoặc vì một mục đích cá nhân mà hơi quá… thì lại khác. Mất khách quan. Không có cái nhìn toàn cục, toàn diện. Nó có thể gây tạo nên một sự tò mò thích thú cho một đám đông vốn xem các scandal trong giới văn nghệ sỹ như một trò tiêu khiển. Nguyên Hùng vẫn dựng lại về nhân vật nổi tiếng ấy, vẫn dùng đến những tác phẩm của họ làm chất liệu nhưng theo cách nhìn của riêng anh. Thường là ấm áp, nhân hậu hơn, có sự thấu hiểu về hoàn cảnh điều kiện và chính vì thế cũng công bằng, hợp lí hơn. Anh ý thức được trách nhiệm của mình và nghiêm túc khi thực hiện trách nhiệm đó. Không bôi hồng tô son, không ngợi ca kiểu tung hô, đánh bóng. Không quét sơn lên thần tượng. Nhưng cũng không né tránh. Anh không bi kịch hóa, không vơ đũa cả nắm, không quy chụp vội vàng, không săm soi chỉ một khía cạnh, một góc mà luôn có cái nhìn mẫn cảm hơn, thấu hiểu và bao dung trong cái nhìn tổng quát, rộng lớn hơn. Và cũng có nghĩa, để làm được điều đó rất cần một bản lĩnh một cái tâm trong sáng, cùng một trái tim yêu thương, nhân ái chân thành.

Đặc biệt trong cuốn sách này, do thời điểm xuất bản trùng với kỉ niệm 80 năm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam nên Nguyên Hùng dành nhiều thời lượng, bút mực, sắc màu cho những “người mẫu” là các nhà văn, nhà thơ đã từng, hoặc vẫn đang đứng chân trong lực lượng vũ trang. Tác phẩm cùng những hy sinh cống hiến của họ khi còn trong quân ngũ được anh thể hiện với một sự trân trọng đặc biệt. Lưu Quang Vũ, Nguyễn Trường, Khuất Quang Thụy, Hữu Thỉnh, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Đức Mậu, Trần Mạnh Hảo, Hoàng Cát…v.v. Không phân biệt cấp bậc, rất bình đẳng, công tâm và đầy yêu mến.

Với một chân dung văn học, thì dù cho là một bài thơ ngắn, một ký họa hay một vài mảnh ghép đi nữa thì “chất văn học” vẫn luôn là một yêu cầu không thể xem nhẹ. Mọi cái nhìn, cách đánh giá, và ngay cả cách biểu đạt, có thể kinh viện, nghiêm túc, có thể đùa vui, thậm chí tếu táo chút kiểu thận mật bạn bầu… nhưng cuối cùng vẫn luôn phải đảm bảo tính văn trong đó. Nhân văn, không ác ý, không tầm thường hóa giá trị. Và nói chung phải là một tác phẩm văn học, một sản phẩm văn hóa. Nếu không nó không có chỗ đứng trong nền văn học và sẽ không được chào đón.

Một lần nữa xin lại được “leng keng” cùng Nguyên Hùng và hy vọng sẽ có nhiều ngọn gió lành ấm áp thổi đến cùng vui với anh.

Sài Gòn, mùa Thu 2024 - K.S

Nguồn:

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm