TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Lê Văn Thảo: “Khi viết tôi rất ít khi chịu áp lực của thời thượng

Lê Văn Thảo: “Khi viết tôi rất ít khi chịu áp lực của thời thượng

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-05-08 16:00:07
mail facebook google pos stwis
2134 lượt xem

CHỢT NHỚ VÀ KHÓ QUÊN

TÔ HOÀNG

Tiểu thuyết Cơn giông được NXB Trẻ ấn hành lần đầu vào năm 2002, NXB Hội Nhà văn tái bản năm 2006. Cũng năm ấy Cơn giông nhận Giải thưởng văn học Đông Nam Á. Có thể nói thẳng điều này: ở cả ba thời điểm  kể  trên Cơn giông không khuấy động được bao nhiêu dư luận của bạn đọc, của giới phê bình. Chuyện không có gì lạ khi thiên hạ đang nháo nhác, tất bật tìm kế mưu sinh mà bỗng trở nên ghẻ lạnh, xa lánh với văn hoá đọc.

Thành thử cuộc trò chuyện giữa chúng tôi với nhà văn Lê Văn Thảo xung quanh Cơn giông hôm nay tựa như một sự vớt vát muộn màng đối với những hạt vàng đã vô tình để lọt qua kẽ tay...

“… đâu hồi năm sáu tuổi gì đó. Tôi đang ở dưới ghe, một cơn giông nổi lên,ba má không thấy đâu, chiếc ghe trôi đi tôi nằm bất tỉnh, có người cứu giúp nuôi tôi lớn lên,đời tôi cũng trôi giạt từ đó...Người đàn ông sau thành ông già nuôi, bán chiếc ghe lấy tiền nuôi tôi, thật ra gởi tôi chỗ này chỗ nọ,đem tôi lên chợ Cà Mau, lên thành phố,tôi lấy được vợ giàu làm giám đốc rồi đi tù ...”. Quá khứ của Bằng- nhân vật chính trong tiểu thuyết Cơn giông đã được nhà văn tóm tắt gọn gàng chừng ấy. Còn hiện tại của Bằng ư? Hiện tại ấy sẽ là 300 trang sách đang trong tay bạn. Mà cũng có thể tóm tắt một lần nữa như thế này: Bằng tìm về cội nguồn, giữa vùng sông nước Cà Mau để bắt đầu một cuộc sống như cha mẹ anh, như thuở anh mới chào đời. Mươi lăm trang đầu, Cơn giônghứa hẹn đưa chúng ta theo bước chân của một chàng Robinson hiện đại. Đọc tiếp thêm chục trang nữa, có cảm tưởng nhân vật khinh miệt cuộc sống bon chen, chụp giật nơi thị thành, muốn sống những năm tháng cuối đời ở nơi “cỏ sạch, nước trong”. Hay ông nhà văn muốn theo gương Nikos Kazntzaki để Bằng sẽ là một Alexis Zorba đi tìm những thú vui trần thế?

Trái với tất cả những dự liệu đó, Cơn giông khai lối đi riêng của mình. Và lối đi ấy đầy vẫy gọi, đầy hấp dụ! 

* Chúng ta hãy bắt đầu với chính Bằng... Nhân vật này có nguyên mẫu trong cuộc đời không?

- Nhân vật trong các truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết của tôi không bao giờ có nguyên mẫu. Hoặc nếu có nguyên mẫu thì đó là hàng trăm, hàng ngàn con người tôi đã từng gặp, từng sống, từng chia ngọt sẻ bùi. Trong chiến tranh chống Mỹ, dù không mặc áo lính, tôi như thuộc quân số của Trung đoàn Miền Tây của Sư đoàn 9. Trung đoàn này rặt lính nông dân quê ở miền Tây Nam bộ, chuyên tác chiến ở vùng sông rạch.Ngay từ thuở đó, dường như đã hình thành trong tôi những nét cơ bản thuộc tính cách của Bằng. Dĩ nhiên Bằng không trải qua chiến tranh. Nhưng khát khao vẫy vùng, ưa tự do, tính cách ngang tàng, bất cần; lòng thương người, sự thô nhám, ăn sóng nói gió...-nghĩa là những gì tiêu biểu cho bản chất của những người “dân ấp, dân lân”đi khai khẩn đất hoang ở Nam bộ-nổi bật ở những người lính miền Tây cũng như ở nhân vật Bằng. 

*Và trong độ đậm đặc, khái quát hơn là nhân vật ông già Sáu Thiên?

- Vâng, tôi không giấu anh,tôi rất thích nhân vật này. Trải qua cả hai cuộc chiến tranh. Về hưu không vợ con, không nhà cửa. Vẫn một bộ đồ lính, một chiếc ba lô lính. Vẫn hết lòng lo cho thiên hạ. Một kiểu Nagunốp trong Đất vỡ hoang của nhà văn Xô viết Mikhail Solokhov. Hết sức trong sáng mà cũng hết sức lông bông. Những xứ sở muốn làm “cách mạng thế giới” bao giờ cũng có rất nhiều những con người đáng yêu, đáng kính trọng như vậy! 

*Những tính cách ấy lại được đặt trên bối cảnh của sống rạch, rừng đước, rừng mắm Cà Mau...

- Tôi không cố ý chọn bối cảnh để tạo dựng nhân vật của mình đâu. Nói thế nào đây nhỉ? Đất ấy sinh ra người ấy mà! Nếu mảnh đất phía Nam mới có lịch sử hơn ba trăm năm khai thiên lập địa thì Cà Mau là vùng đất tiêu biểu nhất cho Nam Bộ. Vùng Năm Căn cho tới hôm nay hầu như vẫn chưa có đường bộ, biển bồi đắp phù sa tới đâu người dân tràn tới đó, mang theo tiếng chó sủa, tiếng gà gáy trưa... Vì thế bản tính là thích thiên di, không thích cái gì đã trở thành quen, thành cũ. Đáng tiếc rằng văn chương, phim ảnh của nước mình khai phá chưa nhiều mảnh đất và con người của xứ sở rất lạ này. 

* Trong Cơn giông ngoài Bằng, ông Sáu Thiên còn có ông già Trăm tuổi, ông già trông coi trại tù, cô Thùy và còn nhiều hình bóng khác hình như có chung một tính cách. Anh có sợ các nhân vật ấy cùng một “típ” người?

- Nếu bạn đọc cảm thấy như vậy thì đó có thể là sự non tay của tôi chăng? Nhưng thú thật tôi chỉ rành về những nhân vật mà mình yêu thương, tâm đắc. Hay nói thế này được không, nhà văn ví như thỏi nam châm chỉ hút vào mình thứ mạt sắt hợp với “tạng”của mình. Trong truyện ngắn và tiểu thuyết của tôi số đông nhân vật thường là những con người bé nhỏ, bị hắt hủi, gặp nhiều bất hạnh ở đời. Và đề tài tôi hay khai thác bao giờ cũng là cái tâm, cái thiện ẩn náu phía trong mỗi con người không may ấy. Tôi thích viết và tâm niệm phải viết như thế. Tôi ít khi bị áp đặt bởi thời thượng (kể cả thời thượng chính trị).

* Trong Cơn giông có những trận ẩu đả,  trộm cắp, có nhà tù... có cả một cơn giông như muốn giật sập đổ tất cả. Ấy thế nhưng ngòi bút nhà văn như muốn né tránh mọi sự dữ dằn,mọi mưu chước. Liệu phương pháp lựa chọn chất liệu như vậy có làm giảm cái thực của văn chương như nhà văn vẫn thường hướng tới? 

- Với Cơn giông tôi không nhắm tới cốt truyện cũng như sự phân tuyến thiện ác giữa các nhân vật. Tôi cũng không cố ý miêu tả tính chất quyết liệt, gay gắt của các mâu thuẫn xã hội. Tôi muốn viết một cách khác, mới mẻ hơn, lạ hơn, tránh thuyết giáo hơn – chí ít là so với những cuốn truyện trước của tôi. Tôi chỉ muốn miêu tả những tính cách lạ nẩy sinh trong những hòan cảnh lạ. Còn tại sao các nhân vật chính, phụ của tôi dù trải qua bao vùi dập, thăng trầm, nếm trải rất nhiều cay đắng của cuộc đời họ vẫn giữ được cái tâm, vẫn là những con người hướng  thiện ư? Anh có nhớ văn hào Pháp Romanh Rolăng đã nói về Macxim Gorki như thế nào không? Đời ông ta dã quá nhiều đau khổ, ông ta có quyền ác độc, vị kỷ đến tàn nhẫn, độc địa; ấy thế nhưng ông ta lại rất nhân ái, rất độ lượng, bao dung với mọi người. Tôi rất thích sự phát hiện ấy của Romanh Rolăng!

* Nhiều bạn đọc,đặc biệt là các bạn đọc trẻ, đã nói với tôi đọc đến trang cuối cuốn Cơn giông của anh họ muốn òa khóc. Không phải khóc vì xót thương số phận chìm nổi của các nhân vật đâu. Họ khóc vì giữa cuộc sống cái ác hình như đang được tháo cũi sổ lồng như hiện nay, tại sao tấm lòng nhà văn vẫn ấm áp, tin yêu đến thế để mà còn nhận ra, còn rung động và cổ súy cho lòng nhân ái, điều thiện căn?

- Xin cám ơn những bạn đọc nào đó đã dành sự ưu ái cho tôi. Không phải chỉ riêng tôi mà hầu như tất cả anh em cầm bút thuộc thế hệ tôi ngay từ khi dấn thân vào con đường cách mạng đã học được bài học đầu tiên - quần chúng lao động nghèo khổ không chỉ là cội nguồn của sức mạnh, của sức chịu đựng, hy sinh, mà còn là gốc rễ  của đạo đức, của lẽ phải và lòng bao dung, nhân ái. Xưa cũng thế mà nay cũng thế. Người cầm bút làm sao trượt xa khỏi đường rây đó được?

* Ấy vậy mà đã thấy xuất hiện những ý kiến hạ thấp giá trị của những cuốn tiểu thuyết thời chống Pháp, chống Mỹ. Lại cũng đã thấy đây đó một kiểu viết nhân vật hay khoe khoang nội ngọai của mình là những ông thông bà phán... Khi miêu tả chiến tranh thì nhân vật biện bạch chưa hề cầm súng hạ một địch thủ nào hoặc đã mấy lần ngấm ngầm thả tù binh của đối phương… Có người đã gọi đó là thứ “văn chương sám hối”.

- Có gì sai đâu mà phải sám hối! Trong chiến tranh chỉ có hậu phương và tiền tuyến; Ta và Địch, một nhiệm vụ duy nhất là đánh địch. Văn chương thời ấy có đơn giản một chút, “kêu gọi”một chút cũng là chuyện thường tình. Ngày nay, cuộc sống và tâm lý con người bộc lộ ra đa chiều, phức tạp hơn,lẽ dĩ nhiên nhà văn có thêm vũ đài để tử thí hơn lại cũng là chuyện thường tình. Tôi viết được những cuốn sách như ngày hôm nay vì tôi đã đọc Con trâu của Nguyễn Văn Bổng, Xung kích của Nguyễn Đình Thi... sau  này đọc tiểu thuyết của Nguyễn Thi, Phan Tứ, Anh Đức... Xét xa hơn nữa, còn là vì tôi đã đọc Lan Khai, Khái Hưng, Nhất Linh...; đọc Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên thời Thơ Mới. 

* Trở lại với tiểu thuyết Cơn giông, có thể nói như thế này: Chất trữ tình, lời kêu gọi hãy hướng tới vẻ đẹp của tâm hồn, của cuộc đời thấm đẫm từng trang. Mà cũng có thể coi Cơn giông là một bài thơ dài bằng văn xuôi. Rất nhiều chủ đề.  Rất nhiều điều muốn nói, ngập ngừng định nói mà bỗng như nghẹn lời...

Mà này nhà văn ơi, nẫy giờ gương mặt và nụ cười của nhạc sĩ Từ Huy bỗng nhiên cứ  ám  ảnh tôi. Bởi chính lời ca trong một bài hát của ông bạn mệnh yểu ấy lại khiến tôi hiểu ra cảm hứng của anh; cả cơn nhập đồng anh không tài nào cưỡng nổi khi viết Cơn giông. Đây nhé: “Thuyền anh đó em cứ cuốn đi, cứ cuốn đi...Thuyền anh đó con sóng cứ xô. Thuyền anh đó cứ mãi nhấp nhô. Giữa biển khơi không bờ không bến...”

Anh Bằng ơi! Anh may mắn lắm vì đã có cô Thùy đợi anh ở khu ruộng nuôi tôm rồi!

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm