- Truyện
- Lứa đôi - Truyện ngắn Lê Thanh Huệ
Lứa đôi - Truyện ngắn Lê Thanh Huệ
Truyện ngắn của LÊ THANH HUỆ
Trước khi tôi về nhận công tác ở đây, cơ quan chỉ có Hà là nữ. Cô có vóc người mảnh dẻ, da trắng mịn, đôi mắt ướt, mũi cao và thẳng. Mỗi khi Hà cười, hàm răng trắng đều đặn làm khuôn mặt sáng lên.
Tôi nhận ra: cứ chiều đến, Hà thấp thỏm chờ anh nhân viên bưu điện mang thư báo đến cơ quan. Sau tiếng gọi “Hà có thư nghen”; cô làm bộ miễn cưỡng đứng dậy, cố làm sao cho bước chân của mình không nhanh quá; nhưng niềm vui lại tràn ra khuôn mặt, trên khóe miệng và cả trong đôi mắt tròn. Cầm chiếc phong bì nhỏ bé, nét chữ nghiêng nghiêng, đẹp phóng khoáng, mắt cô ngân ngấn lệ. Hà cẩn thận kẹp nó vào cuốn lịch sổ, để đấy, lặng im tận hưởng sự hồi hộp, xao xuyến dâng trào, chờ đêm buông hay lúc còn lại một mình; cô lấy chiếc kéo cắt chỉ bé nhỏ, cẩn thận cắt rìa phong bì sau khi đã ghi ngày nhận và bức thư số mấy của người yêu mình lên phía sau phong bì.
Tác giả tại Văn phòng thường trực tuần Báo Văn Nghệ.
Những lá thư mang con tem quân đội, khi thì từ Battambang, khi thì từ Pretvihia hay Xiêm Riệp (những địa danh trên đất bạn) bay về với cô. Hà đã lên thành phố, ghé rất nhiều hiệu sách, lục tìm các ki-ốt để mua tấm bản đồ hành chính Việt Nam - Lào - Campuchia, trên đó ghi địa danh ba nước Đông Dương khá chi tiết. Cô dò tìm những nơi Trọng chiến đấu và đánh dấu vào. Những tên núi, tên sông xa lạ bỗng quen thuộc, rất đỗi thân yêu khi Trọng đặt chân tới. Có lúc Hà tưởng mình từng sống ở đó, chiến đấu cùng anh. Quyển lịch của Hà chủ yếu dùng để ghi ngày tháng nhận thư Trọng, ngày Hà gửi thư cho anh. Cô ngồi nhẩm tính ngày thư đến tay anh, cộng thêm một khoảng thời gian nữa, Hà đánh dấu vào quyển lịch, coi đấy là ngày đón thư của Trọng gửi về. Đường hành quân dài theo năm tháng, có phải lúc nào thư cũng về đều đặn, đúng hẹn đâu. Vào mùa mưa, đường thư tắc có lúc cả sáu tháng trời, đón một lúc gần chục lá thư. Vì vậy, thường là quá ngày đón thư mà vẫn chưa có thư của Trọng, Hà bồn chồn đứng ngồi không yên. Hà nghi ngờ sự cẩn tắc của anh nhân viên bưu điện. Chẳng có ai và chẳng có lời giải thích nào đủ để Hà yên tâm, trừ khi cái phong bì bé nhỏ xinh xinh kia bay về với Hà.
Hà đang ôn thi đại học tại chức. Tôi giúp Hà giải các bài tập, hệ thống lại kiến thức. Năng khiếu và sự thông minh của em không có gì đặc sắc, bù lại Hà rất chăm chỉ. Hình như ngoài việc ôn thi, công việc thường ngày của cơ quan và nỗi mong chờ những lá thư của người yêu ra, Hà không quan tâm đến những khó khăn trong cuộc sống. Cứ như Hà không có những dằn vặt, lo toan của đời thường.
Tôi có người yêu ở gần. Anh là kỹ sư, nhỏ tuổi hơn tôi nên sống buông thả. Tôi đến với anh bằng tình cảm của một người chị, người bạn rồi sau đó mới là yêu. Tôi ít được quyền nhõng nhẽo mà phải lo toan, chăm sóc chu đáo, tận tụy người mà tôi yêu nên tôi vẫn tự cho mình là người vất vả nhất, bất hạnh nhất trong tình yêu. Nhưng hạnh phúc là được hy sinh, được vì người yêu. Vì vậy mà người tôi chóng gần gũi và đồng cảm với Hà. Tôi rất ái ngại khi anh đến và tỏ ra âu yếm, tỏ vẻ quan tâm quá nhiều với tôi trước mặt Hà.
Tôi thông cảm với Hà. Yêu lính là phải chấp nhận thiệt thòi. Ngày xưa số chị em có chồng hoặc người yêu đi chiến đấu xa rất nhiều nên dẫu sao họ cũng không thấy đơn độc, lẻ loi mà lại còn có phần tự hào vì có người thân của mình ra mặt trận. Còn bây giờ người ta lo cho đời thường, tính toán cho bản thân mình nhiều quá. Phải chăng hình ảnh anh bộ đội trong cuộc sống hòa bình, yên ấm, ít được nhớ tới hơn. Những người như Hà phải sống trong chờ đợi, trong môi trường ồn ào, say sưa của tuổi trẻ, của tình yêu lứa đôi quanh mình, tránh sao được những phút xao lòng, buồn tủi. Chưa kể nỗi lo con gái chỉ có một thời. Đợi chờ sẽ chóng mỏi mòn, tàn phai sắc hương để biết đâu rằng ngày về, người mình yêu không còn chung thủy nữa.
Đã hai tháng nay tôi nhìn Hà bồn chồn mà thương, cảm thấy bất lực vì không dễ gì giúp Hà bớt lo lắng. Linh tính báo cho Hà điều gì không ổn. Tình yêu luôn kì lạ. Hai người đã thương nhau hết lòng, dù ở xa nhau vẫn cảm nhận được những thay đổi của nhau, thậm chí cả những tai ương người yêu mình gặp phải. Sự không rõ ràng đó, không chắc chắn đó làm cho Hà khổ tâm hơn. Biết điều ấy, đêm nay tôi bảo Hà nghỉ học bài. Dẫu sao cũng gần đến ngày Hà lên trường tập trung ôn thi. Tôi kéo Hà ra sân. Ánh trăng rửa tan những lo âu, day dứt, nét mệt mỏi, căng thẳng trên khuôn mặt Hà; khuôn mặt em trở nên hư ảo. Gió thổi nhẹ mang khí lạnh mơn man da thịt.
- Hà quen Trọng trong trường hợp nào? - Tôi hỏi.
- Ngày xưa em đâu có ngờ mình lại là người yêu của lính. Chị có tin vào định mệnh không? Em tin trong cuộc sống có những sự ngẫu nhiên tạo nên định mệnh. Nó tình cờ đưa người ta gặp nhau để rồi sau đó gắn bó lại với nhau như một sự tất nhiên, như là sắp xếp trước của số mệnh con người.
Giọng Hà đến đây sôi nổi hẳn lên:
- Buổi chiều cuối năm nhợt nhạt. Mải suy nghĩ, em đạp xe cho tới lúc lao vào bánh trước một chiếc xe đạp của người khác. Em không thể quên được ánh mắt của người con trai đó khi anh dìu em đứng dậy. Đôi mắt dịu đi phần bực bội trước vẻ lúng túng biết lỗi của em. Anh dựng xe của em dậy, loay hoay xem nó có méo mó hư hỏng gì không. Em nhìn vào kẽ tay bị rách của anh. Máu thấm ra mầu đỏ dưới lớp da trắng xanh. Giọng anh nhẹ nhàng: “Có bị làm sao không em? Đi sai đường rồi đó; lần sau nhớ cẩn thận nghen”. Anh lặng lẽ xách chiếc xe đạp bị méo vành của mình rẽ vào lối nhỏ, mặc cho em đứng đó lúng túng, ngượng ngùng. Suốt mấy ngày tết em bị chuyện ấy ám ảnh.
Hồi đó em học lớp 12. Mãi đến khi ba em về hưu, gia đình em chuyển về quê, em mới biết người đó là Trọng. Anh dạy học, là hàng xóm với em. Em thi trượt đại học, đang chờ xin việc ở một cơ quan nào đó. Anh Trọng đưa em cùng các bạn thanh niên ở xã tham gia các hoạt động xã hội. Cùng tham gia lao động, văn nghệ, đến thư viện đọc sách báo, sinh hoạt câu lạc bộ thanh niên xã do anh Trọng và tập thể giáo viên tổ chức. Anh có nhiều tài lẻ: đàn hay, vẽ giỏi, kể chuyện rất duyên. Không rõ tự lúc nào niềm kính phục, tin tưởng đã chuyển thành những rung động kì lạ khi em nghĩ đến anh ấy. Có cái gì đó đã không thực rõ ràng len vào tâm hồn làm em buồn vui bất chợt. Nếu một ngày không được nhìn thấy anh, em nhớ tím tái ruột gan, nỗi lo sợ mơ hồ rất bản năng. Em hay hát những bài anh thích và trong ngôn từ của em thường có những câu chữ mà anh thường dùng. Bạn bè thường “cặp đôi” em với anh Trọng. Em ngượng, tỏ vẻ khó chịu, nhưng thâm tâm em rất thích. Nếu người ta quên “cặp đôi” cho em; em sẽ tìm cách “cặp đôi” anh Trọng cho những ai mà em thấy không xứng với anh nhất, rồi thú vị xem ảnh đỏ mặt từ chối. Sổ tay thôi ghi bài hát. Nó được dùng để ghi những câu triết lý vụn vặt về tình yêu, hạnh phúc khổ đau do em sưu tầm, do em nghĩ ra và do cả anh ấy vô tình triết lý. Em cứ sống mơ mơ, thực thực như vậy cho đến đêm hội diễn của huyện. Anh cởi dây đàn trên vai bước xuống sân khấu, người đầm đìa mồ hôi, tìm em. Anh khen em hát rất hay: “Do em rung động thật sự, cái đó còn hơn cả kỹ thuật, Hà ạ”. Anh cầm tay em. Em bước đi trong mộng.
Hà ngừng lại. Tôi có cảm giác Hà đang đỏ bừng, ngượng ngùng nhớ lại hương vị nụ hôn đầu tiên nhận được trong đời. Trăng mười sáu đã lên được con sào. Bầu trời có vài gợn mây đen trôi về phía mặt trăng.
- Rồi sau ảnh nhập ngũ, phải không em?
- Không đâu. - Sực tỉnh, Hà nói tiếp - Từ đó cho đến ngày nhập ngũ là cả câu chuyện dài. Em nhớ có một nhà văn nào đó viết “Tình yêu như một miền đất lạ, nhiều hoa hồng và lắm chông gai”. Cả em và anh Trọng đều không biết những gì đang chờ đón bọn em.
Cho đến một hôm ba biểu có việc cần nói với em. Ba em là trung tá về hưu. Ba từng vào sinh ra tử ở đồng bằng sông Cửu Long từ ngày mới Tổng khởi nghĩa cho đến lúc chiến tranh kết thúc. Ba hạnh phúc nhất trong những buổi tối cả nhà quây quần quanh bàn nghe ông kể chuyện đánh Pháp, đánh Mỹ, chuyện vui, chuyện buồn, cả chuyện đau lòng trong chiến tranh. Nhưng lần này nhìn khuôn mặt của ba, em chột dạ. Ông bắt đầu hỏi han em về những buổi sinh hoạt, về quan hệ bạn bè và cuối cùng ông đi vào vấn đề chính:
- Nghe bạn bè của con, dư luận chòm xóm, thấy những thay đổi của con, ba mẹ rất buồn. Ở tuổi con, chưa có nghề nghiệp, dính tới chuyện yêu đương là sớm. Con thi rớt đại học, chẳng thấy tính chuyện thi lại. Con muốn đi làm ở một cơ quan trong huyện có phải vì động cơ muốn gần thằng Trọng không? Bao nhiêu người tốt đẹp con không thương mà đi thương một người như vậy. Ba rất tự hào về truyền thống của gia đình ta. Con tính bôi nhọ thanh danh của ba, của má, của con sao? Ba không thể ngồi cùng bàn với ông Chín được, nói chi chuyện sui gia…
Em và anh Trọng chưa lường đến chuyện hai ông trung tá phục vụ hai chế độ, người về hưu, kẻ bại trận sẽ phải ngồi bàn chuyện tương lai cho những đứa con của mình. Ông Chín - ba của anh Trọng, ổng là trung tá Việt Nam cộng hòa. Ngày mới về, em thấy ông Chín kì quặc. Ngày hai buổi, ông ngồi cùng chai rượu trên bộ phản gỗ lên nước bóng loáng, mọt đục thủng lỗ chỗ. Thỉnh thoảng ông ra khỏi nhà đi mua chai rượu. Đôi mắt ông chẳng nhìn ai. Bà con chòm xóm chào hỏi ông, không trả lời; chỉ gật đầu chiếu lệ. Lũ trẻ con chạy theo nhìn ông như người khùng, ông cũng mặc. Người mới gặp ông lần đầu ngỡ ông bị câm, điếc. Chỉ đến ngày tết ông mới nói chuyện với những cụ đến nhà chúc Tết đúng một câu: “Bà con thông cảm cho tôi. Ngày thường gặp tôi, đừng mất công chào hỏi. Tôi là người thừa, không có quyền hành với vợ con, nói chi đến xã hội”. Ông đã từng đi lính cho Nhật, cho Pháp rồi đến Huê Kỳ. Anh Hai là sĩ quan không quân, anh Ba lính dù chế độ cũ. Còn nhỏ tuổi, anh Trọng là người duy nhất trong nhà không đăng lính. Sau ngày giải phóng, ông Chín đi học tập cải tạo. Ông về sau cùng so với hai con trai. Buôn bán khó khăn, bà Chín đưa cả nhà về quê làm ăn sinh sống. Anh Trọng nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống mới bằng cả niềm tin, sức trẻ. Anh học giỏi tự nhiên, ước mơ thành giảng viên đại học sư phạm.
Ông Chín từ trại cải tạo về. Đáng lẽ cuộc sống gia đình sẽ yên vui, đầm ấm hơn, ai ngờ ngược lại. Ông bức xức trước việc bà Chín và các con của ông vào tập đoàn sản xuất, đem hiến mảnh đất của ông nội bao nhiêu năm gầy dựng vào đất chung của tập đoàn. Đã thế vợ con ông lại hay nói với ông về chính sách, chế độ. Ông càng tỏ ra khó chịu bao nhiêu, lũ trẻ càng say sưa với các hoạt động xã hội bấy nhiêu. Ông quyết định dọn nhà về thành phố tiếp tục sống bằng nghe buôn bán, cả nhà không nghe ông. Điều mà từ trước đến nay chưa hề xảy ra. Ông bắt đầu thấy vai trò của mình trong gia đình đã bị mất. Ngày xưa mình ông đi lính, dư sức nuôi cả nhà, nay vốn không quen cày cuốc, ông trở thành kẻ ngồi không, ăn bám vợ con. Ngày xưa, thuộc cấp tuân lệnh ông. Giờ vợ con không theo ý của ông. Lúc ông kiếm cớ cằn nhằn vì không thể la hét cho nguôi bực bội, vợ, các con ông nhìn ông bằng con mắt thương hại, coi những lời ông nói là triệu chứng của bệnh lẩm cẩm, khó tánh của tuổi già. Học rất giỏi, anh Trọng vẫn thi rớt đại học. Với ông Chín, đó là điều không thể xảy ra được nếu như người ta không cố ý đánh trượt. Ông cay đắng: chẳng có chỗ đứng cho con ông ở xã hội này. Ông đã nói thẳng với cả nhà: Trọng phải làm ăn buôn bán. Chế độ có thể thay đổi, nhưng tiền và vàng ở thời nào cũng cần thiết cả. Trọng vui vẻ nhập học trường sư phạm của tỉnh. Những tiêu cực, những khó khăn trong cuộc sống bắt đầu sinh sôi như một nạn dịch khiến ông Chín hể hả. Nhưng như có một ma lực nào đó, các con của ông, bà vợ của ông cứ bị cuốn vào cuộc sống mới, bất chấp những gian khó ngày càng nhiều hơn. Từ đó ông lấy rượu làm vui, lấy im lặng thách thức gia đình, xóm giềng. Sau thời gian bàn tán, xóm làng coi như chuyện thường tình. Chỉ với gia đình, sự im lặng đó là cả một gánh nặng bức bối. Nó trở thành bức tường cản trở mọi bạn bè khách khứa của anh Trọng và bà con chòm xóm đến thăm chơi. Nó là đám mây đen che phủ mọi tình cảm tươi vui của gia đình. Chính vì vậy mà học xong, anh Trọng không chịu ở lại trường để học tiếp bậc hàm thụ đại học. Anh xin về dạy học ở xã nhà để mong chóng được dạy các em và thay đổi lại không khí của gia đình.
- Anh Trọng sống trong những dằn vặt ấy mà vẫn tốt. Trong sự đấu tranh giữa hai tư tưởng mà vẫn trong sáng mới quý. Sao ba lại không ưa những người như vậy…
Ba đấm tay xuống bàn làm rung bộ ly, cắt lời em. Xưa nay ba chưa bao giờ bực bội trước mặt con cái đến mức như vậy. Ông lấy lại bình tĩnh, nén giọng nói có vẻ ôn hòa, nhưng câu từ thoát ra ngoài ý muốn:
- Cứ theo tụi nó đàn đúm là hỏng hết. Mất quan điểm giai cấp, mất giáo dục. Giờ thì nó phải tốt hơn cha mày chớ. Si mê rồi. Cứ đà này, nó rủ rê vượt biên, con cũng đi. Đừng nhìn vào bề ngoài mà lầm tưởng, mất cảnh giác nghe con. - Ba gằn từng tiếng - Cấm! Từ nay ba cấm con tiếp xúc với thằng đó. Nghe rõ chưa? Mày phải biết bảo vệ thanh danh của mày, của cha mày, của cả nhà mày. Nghe rõ chưa?
Em chạy vào buồng tức tưởi khóc. “Ba quan trọng hóa vấn đề. Người chiến thắng, sao ba không công nhận sự tiến bộ thật sự của con cái họ; để chung sống, cùng xây đắp cuộc đời với mình. Xã hội ta còn có người chưa tốt, chưa nhiệt tình với công việc, còn kém xa anh Trọng mặc dù họ mang danh này kia… Ngoài đời ba nói xóa bỏ chuyện cũ, đánh giá con người qua hiệu quả công tác… Vậy sao ba lại cấm. Tiến bộ là con đường chung cho tất cả mọi người chứ đâu phải đặc quyền đặc lợi riêng có của con em những người có công với kháng chiến mới được quyền đi trên đó…”.
Bao uất ức em không có quyền bày tỏ với ba được nên em phải làm cuộc chiến tranh lạnh với gia đình. Em gắng kiệm lời nhất. Chỉ “dạ” khi thấy thật cần thiết. Nhưng chị ơi, tuổi trẻ không thể làm thế được, em không thể im lặng được khi mà chính em lại cần có người chia sẻ nỗi đau của mình. Em tìm đến má. Má hiểu con mình bằng trái tim, suy xét mọi việc bằng chính tình cảm của mình. Má biết em đúng, thâm tâm má quý “thầy Trọng” nhưng má không đủ lý lẽ để thuyết phục ba. Sau vài lần góp ý không thành, lại bị những từ ngữ quan trọng hóa vấn đề của ba về thanh danh của gia đình, về sự hư hỏng sẽ đến với em, má đứng về phía ba những mong tìm một giải pháp hòa bình, giàu yêu thương nhất.
Cuộc sống trong gia đình nặng nề hẳn đi. Nó thường bị khuấy động lên sau bữa cơm chiều buồn tẻ. Ba vừa xỉa răng vừa nói với em:
- Bộ mày không vui được hay sao, Hà? Sống phải có lập trường chớ. Ngày xưa bao người tự nguyện hy sinh hạnh phúc riêng tư vì cách mạng, vẫn vui lòng đó con…
*
Thế là em bắt đầu đưa ba vào cuộc luận chiến. Em chứng minh và ba bác bỏ. Em dựa vào cái lý bác bỏ của ba để dồn ông đến chân tường. Lúc căng thẳng nhất, thằng Đức em út của em nhào vô tiếp sức cho chị. Nó khoe thầy Trọng của nó vẽ đẹp, đàn hay, giảng bài, thầy kể một câu chuyện lý thú minh họa cho bài học. Được một thầy giáo dạy giỏi như thầy của nó làm chủ nhiệm là một niềm tự hào. Thầy Trọng của nó còn dám đấu tranh với tội ăn hối lộ của thầy hiệu trưởng kia mà…
- Sao lại ghét một thầy giáo tốt như vầy. Ba bảo con phải nghe lời thầy chủ nhiệm? Sao ba lại cho con đi học với người ba không thích.
Ba đuối lý, dùng quyền làm bố để buộc em và thằng út không nói nữa. Buổi tối mất vui. Những cuộc tranh cải không đi vào thực chất nhưng lại núp bóng tình thương, tình mẫu tử.
Em muốn mặc kệ tất cả để được tự do yêu thương anh Trọng. Em không muốn ba má em buồn phiền mãi. Giữa tình yêu và tình mẫu tử, em không biết dung hòa cho tròn cả đôi bên. Day dứt mãi, em quyết định chọn lối thoát trong sự dối trá. Bí mật trao đổi thư từ với anh Trọng và làm ra vẻ phục tùng cha mẹ. Em cũng không biết tại sao lúc đó em không thấy xấu hổ mà còn cảm thấy thích. Cứ như truyện trinh thám. Nhưng bằng cách nào đây? Cũng may em còn có đồng minh của mình. Chị nghĩ xem. Người tốt nhất cũng có kẻ ghét và kẻ xấu nhất cũng có người thương, huống chi em. Trong nhà lại còn thằng út. Nó coi thầy Trọng là người tài ba nhất trên đời. Vì vậy nó vui mừng bao nhiêu khi người ta bàn tán về tình yêu của chị gái với thầy Trọng, thì nó ngạc nhiên, tức tối bấy nhiêu khi nghe ba má rì rầm bàn cách ngăn cản chị nó đến với thầy.
- Ba má là những người tốt, phải không chị? - Thấy em gật đầu nó hỏi tiếp - Thầy Trọng cũng tốt chớ? - Không đợi em trả lời, nó hỏi luôn - Tại sao những người tốt không ưa nhau?
Chẳng ai giải thích giúp Đức, thỏa mãn. Nó trở thành đứa bé láu lỉnh. Nó xa lánh và cảnh giác với ba má hơn. Trước mặt ba má, nó tỏ vẻ ngây thơ khờ dại, nhưng khi còn có hai chị em với nhau, nó công khai ủng hộ em. Đức trở thành liên lạc viên, bảo vệ nhiệt thành cho em tránh khỏi sự kiểm soát của ba má.
Không ai có thể qua mắt được những người sống chung một nhà. Ba em phát hiện được con gái ông thường xuyên gặp Trọng. Bị lừa dối, ông nổi giận. Tiếng ông nghẹn lại: “Cả nhà này chỉ có giá trị thử thách cho tình yêu của chúng mày”. Ông chợt hiểu nóng nảy, thô bạo chỉ làm cho chúng em gắn bó với nhau thêm.
- Không thể đốt cháy giai đoạn được. - Ba bàn bạc với má - Viên đạn bắn ra hoặc là giết chết con chim hoặc làm cho nó sợ hãi bay mất. Cần phải công phu, có điểm, có diện, tuần tự từng bước. Má nó lãnh phần đánh vào tình cảm, tôi dùng biện pháp cứng rắn. Đòn cuối cùng đánh vào danh dự bọn nó. Nếu tụi nó liều, má nó cùng con gái về bên ngoại, cách ly con Hà ra khỏi thằng Trọng.
Ba má lập kế hoạch hoàn hảo đối phó với em.
Hễ Trọng vừa nắm tay em đi dưới hàng dừa mọc ven kinh, hoạc chỉ cần chúng em tách ra khỏi đám đông, má xuất hiện “xin lỗi thầy Trọng” và gọi “con Hà về nhà có công chuyện”. Em bị săn đuổi, bị theo dõi theo từng bước chân. Ba má vận động bạn bè, bà con chòm xóm thân thiết khuyên can em. Lúc đó má ngồi khóc, kể lể công lao nuôi dạy em khi vắng ba, trong cảnh cơ cực và bị bọn tề ngụy o ép. Em xót xa, em ngượng, em cảm thấy mình bị xúc phạm.
Bất ngờ ba hành động quyết liệt. Ổng gặp anh Trọng không phải với tư cách phụ huynh học sinh, mà với tư cách người cha có con gái bị “anh mê hoặc”, yêu cầu anh hãy để cho “nhỏ được yên, còn lo nghề nghiệp của nó”. Anh Trọng đành phải chấp nhận và thông báo với ông: anh đã xin được việc phù hợp với em. Ba em gạt đi, vì rằng không thể để người khác lo cho con mình “khi tôi đang sống”.
Chị ơi! Nếu giận ai đó, bực bội điều chi ta có thể nguyền rủa hoặc cấu xé họ cho nguôi đi cơn bực. Nếu bất lực, ta còn trả thù bằng sự khinh bỉ và nỗi căm hờn chôn chặt trong tim. Đằng này giận cha mẹ chỉ biết nuốt giận, cắn răng chịu đựng một cách dai dẳng. Giận mà thương. Giận mà chỉ còn biết chết đi cho hả.
Chị ơi, đã có lúc nào chị phải sống trong tuyệt vọng chưa? Trong hoàn cảnh đó, đáng lẽ anh Trọng phải động viên em tìm cách vượt qua, anh lại khuyên em thôi đành phải dừng tình cảm lại. Tình cảm có phải là cỗ xe đâu mà dừng nó lại được. Đầu óc con người, đâu phải là cái máy vi tính để khi cần đem xóa đi ổ nhớ cũ và thay thế vào đó chương trình khác. Làm sao anh có thể đền bù cho em sự day dứt, khổ nhục và tan nát đó. “Vì danh dự của anh bị xúc phạm nhiều quá, thanh danh của người thầy bị tổn thương quá lớn, anh xin em thôi đành hi sinh tình cảm thiêng liêng, trong sáng của chúng mình”. Vậy đó chị ơi! Đàn ông chỉ là đàn ông. Họ sẵn sàng hi sinh vì danh dự, thậm chí để bảo vệ hư danh, đâu biết sự đau khổ của người khác.
Em chẳng thể sống mãi trong trạng thái tuyệt vọng đó. Anh Trọng xung phong đi bộ đội. Trúng tuyển, anh chờ ngày lên đường. Anh muốn trốn tránh dư luận, trốn tránh tình yêu, trốn tránh gia đình của anh, hay muốn sống trong môi trường nhiều thử thách nhất để chứng tỏ mình? Nghe tin anh đi bộ đội, giữa ban ngày, ông Chính tát anh một cái nảy lửa. Bất chấp xóm làng nhìn vào, ông chửi anh “điên khùng”. Ông không muốn con theo con đường binh nghiệp. Ông không tin xã hội này có chỗ để Trọng tiến bộ. “Ngay cả nhà ông Năm cũng không chấp nhận mày vì cái lý lịch của tao. Có nhục cho tao, cho mày không Trọng?”
Ba hả hê; theo ông, cuối cùng, thực tế “mở mắt” cho em. Ba nói, với cách phản ứng của ông Chín, anh Trọng sẽ không được nhập ngũ nữa. “Quân đội mình là quân đội cách mạng, phải được chọn lựa kỹ càng”. Biết ngày Trọng lên đường nhập ngũ do thằng Đức thông báo, ổng “hử” một tiếng.
Sáng ngày anh Trọng lên đường, em và thằng Đức đi tiễn anh Trọng. Ra khỏi xóm, gặp bà Chín đang lỉnh kỉnh. Bà kể lể: sáng ra anh Trọng chỉ ăn qua loa, xáo đống đồ đạc bà Chín đã chuẩn bị sẵn cả đêm qua, chọn lấy mấy thứ cần thiết rồi đi. Ngang qua cửa, anh chào “thưa ba, con đi”. Bà Chín rơm rớm nước mắt: “Ông tệ quá, con cái ra đi, một lời chào của nó ông cũng không ừ lại được”.
Thằng út bươn lên trước. Chỉ còn lại em với bà Chín. Nơi nhận quân đã đông. Em cầm tay bà Chín tất tưởi len qua mọi người để tìm anh Trọng. Không hiểu sao em cảm thấy gắn bó kì lạ với bà Chín. Bàn tay gầy guộc nhăn nheo của bà Chín cũng ấm như bàn tay của má. Thầy Trọng đang bị học sinh, bạn bè vây quanh, bà Chín thở hổn hển:
- Con quên mấy thứ ở nhà. Má đem thêm ít bánh, tới đơn vị có cái mời các ông chỉ huy. Đi đường đừng ăn bậy, đau bụng nghen con. Cơm, bánh, má để ở trỏng. Cả thuốc nữa. Hút ít thôi…
Anh Trọng xấu hổ. Có tiếng reo của thằng Đức: “Thầy Trọng ở đây, ba nè!”. Ba em đến thật. Em và anh Trọng bối rối trước cú “kiểm tra đột xuất”. Bà Chín như gà mắc tóc, không biết nên chào, hay thanh minh giùm em, hay thôi. Ba đứng, lặng lẽ. Sự có mặt của người mẹ tiễn đưa con mình lên đường làm ông khó xử. Đột ngột, ông bỏ đi.
Tôi thở phào:
- Mọi cái đã được giải quyết xong!
Hà buồn rầu im lặng. Lúc này tôi nhận thấy mình quàng tay ôm lấy Hà từ lúc nào. Mây đen dồn lại. Gió thổi mạnh, lạnh hơn. Bầu trời tối lại. Xa xa lấp lánh hai ngôi sao rất sáng nằm ngay trong khoảng nhỏ quang mây. Gió sắp đuổi mây không cho nó che mất trăng hoặc mưa sẽ rơi xuống. Tôi và Hà cùng vào phòng. Ngồi xuống giường, Hà buồn rầu kể tiếp:
- Ba em chưa có thay đổi nào cả. “Vấn đề vẫn là ông Chín”, làm ba rầu. Nhưng cục diện thay đổi, ba đành im lặng khi thấy em và thằng út hay qua lại nhà bà Chín thăm nom, giúp đỡ. Gia đình bộ đội neo người, không lẽ lại cấm. Có thể ba nhớ lại ngày xưa má và ông bà ở nhà cũng được bà con chòm xóm đùm bọc. Má thông cảm với nỗi bồn chồn của em khi thiếu anh Trọng, thiếu tin tức về anh. Má rơm rớm nhìn em. Cả quãng đời đằng đẵng mong chờ tin ba của má ngày xưa đang tái hiện ở em một cách mãnh liệt hơn. Cũng bằng con tim của người mẹ, má đã tác động vào ba. Ba nhìn em âu yếm hơn, ổng tránh nhắc lại chuyện xưa.
Ông Chín vẫn giữ thái độ im lặng cả lúc anh cán bộ chính sách mang tấm bằng gia đình vẻ vang đến nhà. Chỉ những lúc có em và thằng út trong nhà, ông mới vui vẻ bắt chuyện với em. Ngày họp mặt các gia đình quân nhân, tuy chỉ có bà Chín đi, ông cũng bị khuấy động.
Cho đến ngày anh bộ đội về thẩm tra lý lịch anh Trọng để kết nạp Đảng, em tung tăng mua các thứ anh Trọng cần, anh thích để gửi cho anh. Em ngồi bên cửa sổ thêu khăn. Vừa đưa đường kim, em vừa hát nho nhỏ. Anh bộ đội ghé nhà “xem mặt” và thăm thủ trưởng cũ. Ba và ảnh trò chuyện suốt cả buổi chiều. Từ thăm hỏi tâm tình đến những vấn đề, những quan điểm… Chẳng rõ anh có sứ mạng nào trong chuyện tình của chúng em không, nhưng thấy anh cùng ba tranh luận sôi nổi lắm.
Có lúc tiếng của ba rất to: “Vấn đề tôi đang vướng vẫn là ông Chín. Chẳng lẽ tôi mang danh một người trung tá cách mạng, lại ngồi cùng bàn, uống chung ly rượu với một trung tá ngụy ngoan cố, nhất quyết không hòa nhập với cách mạng. Lại phải cười với nhau. Rồi cả đời gắn với nhau vì tụi nó? Được không?”. Tiếng anh bộ đội: “Nhưng mà thủ trưởng tìm đuuợc cách đưa ổng đi trên con đường cách mạng mới thể hiện tính ưu việt của chế độ ta. Ngày xưa ta cũng binh vận, cũng giáo dục mà…”.
Thư tiếp anh Trọng báo tin đã được đứng trong đội ngũ của Đảng. Tuy không ồn ào nhưng cả nhà vui, niềm vui ai cũng cố giấu. Ba khen: “Thằng nhỏ được”. Em chớp thời cơ đọc cho ba nghe đoạn anh kể về những cuộc hành quân truy quét bọn tàn quân Pôn Pốt trong mùa khô. Những lần tiếp cận địch, khát nước đến quẫn trí. Biết rằng chờ thêm vài chục phút nữa cho đúng giờ hợp đồng tác chiến là lại thêm vài chiến sĩ hi sinh vì khát nước, đồng đội nghiến răng chịu đựng… Ba im lặng, rân rấn nước mắt. Quãng đời gian lao đầy dũng cảm và tình đồng đội khi xưa lại tràn về trong kí ức ba.
Anh Trọng được phong thiếu úy, quyền đại đội trưởng, ông Chín vui như mở cờ, em mới thấy hết những gì mà ba lường trước.
Với ba, việc ảnh được vào Đảng là quan trọng nhất, còn với ông Chín, việc ảnh được “thăng cấp” mới là quan trọng, mới đáng vui, còn chuyện vào Đảng chẳng đáng để ông chú ý. Hai ông già hãy còn khác xa nhau chính kiến, quan điểm, làm sao ngồi lại “đàm phán” được, nói chi chuyện “đàm đạo”. Bất chấp hai ông già, cả gia đình em cũng bị cuốn vào nhịp sống mong chờ của em rồi.
Chị ơi, đã lúc nào chị có người yêu là lính chưa? Ngày xưa em thờ ơ với thời cuộc lắm. Còn bây giờ, mọi tin tức liên quan tới bộ đội, em theo dõi kỹ lắm. Đến lời một bài ca về lính, đến một câu hát “Tiến bưới dưới quân kỳ” thôi cũng làm em rạo rực. Nghe nó, trái tim em nghẹn ngào, nước mắt em ứa ra. Chị ơi, có phải phụ nữ chúng mình thường bắt đầu một sự nghiệp, hướng tới một lý tưởng từ tình yêu thương một con người cụ thể? Có phải vậy không chị?
- Chị không rõ nữa. - Tôi trả lời Hà - Nhưng phụ nữ chúng mình vốn nặng tình cảm hơn lý trí. Thế còn lá thư mới nhất của anh Trọng viết cho em từ ngày nào?
- Dạ ngày 18 tháng 4 chị ạ. Đến nay đã trọn sáu tháng bảy ngày rồi đó. Để em lấy thư ảnh cho chị coi nghen.
Hà đứng dậy mở vali lấy hộp bằng gỗ thông rất đẹp, mở ra, trao cho tôi phong thư nhỏ giờ đã thơm mùi nhựa thông. Tôi cẩn thận lấy tờ giấy học trò ra khỏi phong bì:
“Ta Beng Meng Chay ngày… tháng… năm…
Hà em!
Anh đã nhận được thư em. Đồng đội anh đọc đi, đọc lại, vẫn cứ bật cười mãi vì câu em viết. Anh ghi lại nguyên văn nhé. Không cần xem lại đâu, chính anh cũng thuộc: “Một năm có 356 ngày. Mỗi ngày có 24 giờ, mỗi giờ có 60 phút và mỗi phút có 60 giây. Em xa anh đã 3 năm 1 tháng 2 ngày. Như vậy tính ra có đến hơn một trăm triệu giây xa, nhớ, mong, chờ. Anh dành cho em được bao nhiêu giây trong hơn một trăm triệu giây đó!”. Mấy ảnh bảo em tính còn chưa chi li. Bởi một ngày sống trong đợi chờ bằng một… ngàn thu đó. Ở đây ngoài nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương, các anh còn có thêm nỗi nhớ Tổ quốc nữa. Em tính hộ anh và nhớ tính xem nên nhân với hệ số nào. Nhiều câu em viết thành câu cửa miệng của bọn anh. “Tình bạn cũng cần có sự thủy chung, huống chi tình yêu”. Đồng đội của anh bỏ bớt vế sau, để làm câu “răn đe” nhau đó. Mới hay bé Hà của anh giỏi lý sự lắm.
Em! Đơn vị của anh mới được rút về thị xã này vừa để bảo vệ nhân dân, vừa giúp bạn xây dựng một nhà máy nước. Chưa quen địa hình nên đêm đầu tiên bảo vệ cho đồng bào Campuchia xem phim, bọn tàn quân Pôn Pốt đã lẻn đến ném lựa đạn vào giữa bà con. Thời khắc quý giá biết bao. Người chiến sĩ không có thời gian để định hướng nên nhặt nó ném về đâu mà chỉ kịp nằm xuống đè lên nó.
Ai là kẻ thù của bọn Pôn Pốt? Người dân vô tội, mảnh đất giàu có hay bầu trời Campuchia? Tại sao phải lén lút và hèn nhát như vậy?
Đưa thi thể của người liệt sĩ đó lên máy bay đem về nước có cả đồng bào Campuchia. Hôm sau, cả chục tên tàn quân ra hàng vì chúng đã tận mắt chứng kiến hành động quên mình vì đồng bào Campuchia của người anh hùng đó…”.
*
Hà về trường tập trung ôn thi. Cô nhờ tôi nhận thư giúp: “Nếu có điều kiện, chị đem lên cho em nghen”.
Kì lạ thay, tôi cũng bị lây nỗi thấp thỏm chờ mong của Hà. Cho đến sáng nay, một anh bộ đội mặc bộ quân phục mới còn nếp là, có nước da sạm đen và đôi mắt to đến tìm Hà. Bằng linh cảm, tôi biết chắc đó là Trọng. Cả cơ quan tôi đón anh như người thân đi xa về. Là con trai, đôi má anh hơi bầu bĩnh. Khi cái miệng tròn nho nhỏ của anh nở nụ cười, lộ ra bộ răng khấp khểnh, ám khói thuốc lá. Trọng có nhiều nét hao hao giống Hà, cứ như hai anh em vậy.
- Ông cụ mời tôi đến chơi và trò chuyện suốt đêm, chị ạ. Đó là một con người sống rất thật, rất tốt và giàu nhiệt huyết.
Tôi chỉ vết sẹo dài trên cánh tay phải và hỏi tiếp:
- Anh Trọng bị thương hồi nào?
Cách đây gần sáu tháng rồi.
“Lý do chậm thư đây”. Tôi thầm nghĩ và hỏi tiếp về trường hợp bị thương của anh. Trọng chỉ cười:
- Cũng như những anh em thương binh khác thôi, bị thương trong lúc làm nhiệm vụ.
Rồi Trọng lảng sang chuyện khác. Phải công nhận Trọng nói chuyện rất duyên và luôn nhìn thẳng vào mắt người trò chuyện với mình một cách tự nhiên. Ánh mắt cảm thông, khích lệ, như thầy nhìn và nghe học trò của mình nói vậy. Trọng có năng khiếu đặc biệt: luôn đưa người nghe ra khỏi những lời khách sáo, xã giao một cách nhanh chóng, rồi giúp họ nói ra những suy nghĩ, những tâm tư của mình một cách thoải mái. Nghĩa là khi trò chuyện với Trọng, có bầu không khí ấm cúng đáng tin cậy và tự nhiên muốn nói thật, nói một cách vui vẻ thoải mái.
Chiều đó Trọng lên đường tìm Hà, để lại cho tôi những suy nghĩ vẩn vơ…
*
Xe vào bến, tôi và Hà xuống xe.
- Thôn em ở đẳng.
Tôi đưa mắt nhìn theo tay Hà chỉ, giữa biển lúa vàng lăn tăn ngàn vạn con sóng đuổi nhau lấp lánh dưới ánh nắng ban mai còn mang màu đục mờ của sương sớm, nổi lên đảo dừa xanh ngắt, thấp thoáng những mái ngói đỏ tươi. Tiếng Hà thì thầm bên tôi:
- Mỗi lần đứng ở đây nhìn về xã nhà, em cứ ngỡ đằng sau đường viền xanh bằng cây trái đó là thế giới thần tiên. - Xách đồ đạc lên, Hà vừa đi vừa nói tiếp - Mùa xuân sắp đến rồi, trời năm nay lạnh hơn mọi năm. Chỉ còn hai mươi lăm ngày nữa, tròn năm năm ngày em gặp anh Trọng lần đầu tiên.
Tôi mỉm cười trêu Hà:
- Chắc em sống vì kỉ niệm đó cưng?
Xe lam đưa chúng tôi về đến ngõ ngôi nhà lợp bằng lá dừa, vách cũng bằng lá.
- Nhà em đó.
Tôi ngạc nhiên vì trí tưởng tượng của tôi bao ngày qua vẽ lên một ngôi nhà xây có nhiều phòng có nhiều cửa sổ hắt ánh sáng mặt trời đã được lọc qua tán lá xanh dày bao quanh nhà. Tôi tưởng sẽ thấy tại phòng khách một ông già quắc thước đang uống trà trên bộ xa-lông màu mận chín cùng ai đó.
Nhà đang có khách. Tự nhiên Hà cầm tay tôi bóp mạnh rồi kéo tôi đi vòng cửa sau. Em chỉ cho tôi một ông già cao to, nước da xanh xạm, ốm yếu, khuôn mặt to, đầy nếp nhăn và trông có vẻ quen. Hà thì thầm vừa đủ cho tôi nghe bằng giọng hồi hộp thật sự:
- Ông Chín đó. Bển là ba em.
Ba của Hà cũng cao lớn, khuôn mặt từng trải, dãi dầm sương gió trông đĩnh đạc, nhân từ, khiến tôi có cảm giác kính trọng ngay từ lúc mới nhìn thấy. Tiếng ông Chín không được tự nhiên lắm. Hình như ông đang lấy hết nghị lực để đẩy bật cái điều ông vẫn nung nấu lâu ngày trong lòng thành lời nói:
- Tôi biết… anh Năm và tôi cũng khó… thông cảm được với nhau. - Rồi giọng ông mạnh lên, cứng cỏi - Chẳng ai thay đổi được ai theo ý của mình cả. Có điều anh cũng thương con thương cháu như tôi. Mà rồi hai bà, hai gia đình cũng đã lỡ thương tụi nó. Thôi thì chuyện cũ cho qua, đặng nhẹ lòng mà còn lo, còn tính cho tụi nó.
Im lặng. Qua cửa sổ, tôi thấy khuôn mặt ông Năm có nét căng thẳng. Mọt lúc sau, ông thở dài:
- Thôi đành vậy. Bây giờ không phải là mười năm về trước. Mà sau này tụi nó cũng phải chịu cho con cháu làm khác ý tụi nó. Vậy thôi… đời mà…
Trong lúc nói chuyện, tôi thấy ông Năm - Ba của Hà vẫn đứng chứ không chịu ngồi xuống chiếc ghế cũ đặt bên cạnh ông Chín…
Tân An, những ngày cuối năm 1986
LTH