TIN TỨC
  • Truyện
  • Mái tranh nghèo của mẹ - Truyện ngắn Đặng Chương Ngạn

Mái tranh nghèo của mẹ - Truyện ngắn Đặng Chương Ngạn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-13 07:58:03
mail facebook google pos stwis
50 lượt xem

“Mái tranh nghèo của mẹ” – truyện ngắn của Đặng Chương Ngạn gợi mở từ công trường thủy điện đến phát hiện bất ngờ: hai hài cốt lính thuộc hai chiến tuyến nằm trong thế ôm chặt nhau. Hình ảnh ám ảnh ấy hóa thành biểu tượng về hận thù và tha thứ, về khát vọng trở về dựng lại “mái tranh nghèo cho mẹ”. Một truyện ngắn vừa kịch tính vừa giàu nhân văn, để lại dư âm lắng sâu.
 

ĐẶNG CHƯƠNG NGẠN

(Truyện ngắn được Giải Nhì (không có giải nhất) Giải thưởng Quỹ nhà văn Lê Lựu 2018-2020) 

Chiếc điện thoại cục gạch có đến năm cuộc gọi nhỡ từ một số máy lạ. Tôi không gọi lại vì nghĩ rằng nếu có việc cần gấp họ sẽ gọi tiếp. Đúng vậy, số máy lạ đã gọi lại vào buổi chiều, tiếng chuông dai dẳng kéo dài, sẽ còn kéo dài dẵng dai hơn nếu như tôi không bắt máy… Cái giọng khê đặc không lẫn vào đâu được của tay trưởng Ban quản lý dự án các công trình thuỷ điện tôi từng tham gia xây dựng mấy năm gần đây dội ra từ loa thứ âm thanh rờn rợn như ai kéo cái thùng tôn rỗng trên nền gạch. Dân xây dựng thuỷ điện quen gọi gã là Pháp cá tra. Thực ra gọi như vậy oan cho cá vì con cá tra vẫn chừa ra một số thứ không ăn, còn Pháp này thì không, hắn nhai rau ráu mọi thứ.

 - “Có gì không ông?”

 -  “Dự án mới năm trăm tỷ!”

Hắn cúp máy cái rụp.

Hắn biết rõ quyền uy của thông tin trên. 100 thằng thầu xây dựng thì 100 thằng sẽ gọi lại ngay khi nghe một thông tin như vậy. Gọi vồn vã, nịnh nọt, giọng bợ đỡ, cầu tài… Hình dung cái mặt chảy xệ mỡ đắc chí của hắn đang xẹp xuống trong kinh ngạc, tôi khẽ thở dài… Tôi không gọi. Mấy năm lăn lộn rừng núi Miền Trung, tôi cũng chẳng kiếm được bao nhiêu từ các dự án thuỷ điện, chỉ mang về mớ vi trùng sốt rét, thói xấu nghiện thuốc lào và mấy chục số điện thoại của các ả giang hồ… Chút tiền kiếm được, tôi cũng đã nướng sạch vào sàn chứng khoán, với cơn đỏ đen phái sinh lên xuống theo VNindex. Bây giờ, moi hết túi, tôi không còn đồng lẻ nào để tham gia dự án  mới, mà chắc chắn ngay khi gặp gã Pháp thủ tục đầu tiên cũng không dưới mười ngàn đô. Thực tế cay đắng, tôi đang trốn nợ, đang bị mấy nhà cung cấp vật tư doạ kiện ra toà, doạ bỏ tù vì nợ dây dưa chưa trả…

Thật bất ngờ, hắn gọi lại tôi cuối buổi chiều:

“Dự án hấp dẫn mà ông không quan tâm? Lạ thật?”

“Tôi chán lên rừng rồi! Mà ông gọi lại tôi làm gì! Vụ này ông hé miệng thì có hàng trăm nhà thầu nhảy vào đánh nhau toé máu ấy chứ!...”

Pháp cá tra bất ngờ hạ giọng:

 “Đúng vậy! Nếu tôi hé miệng thì đúng hàng trăm thằng nhào tới! Nhưng tôi cần ông, tôi biết chỉ ông mới làm được vì có một vấn đề: Tiến độ gấp. Rất gấp. Đám kia chỉ ăn hại!”

Hoá ra hắn đang vào thế kẹt. Ngày làm lễ khởi công đã đến nhưng con đường dẫn vào công trường vẫn chưa xong. Hắn cần một thằng như tôi để có thể hoàn thành con đường dẫn trong thời gian hai tháng. Tình thế lạ lùng, một nhà thầu như tôi được quyền ra điều kiện cho bên quản lý dự án: đúng là sông có khúc, đời có lúc nhỉ, đôi khi gã số phận khó tính mỉm cười với ta vào lúc bất ngờ nhất.

  Để được Pháp cá tra vời tới, xuống nước không cần đút túi một phần trăm nào không phải là chuyện bình thường: thứ nhất, tôi là một nhà thầu luôn giải quyết được các vấn đề kỹ thuật và tiến độ các công trình xương nhất, mà đám dự án thuỷ điện đều biết tên, biết mặt; thứ hai, chắc chắn dự án đang rơi vào một tình thế bế tắc, hết sức bế tắc...

Tôi được Pháp xí cho công việc đầu tiên cũng vì giải quyết một tình thế bế tắc của hắn. Hồi đó, hắn làm cho một dự án nước ngoài, mở rộng một nhà máy thức ăn gia súc, thi công kè chắn ven sông. Bọn hắn đã thiết kế, đấu thầu, chuẩn bị khởi công thì ông chủ người Hà Lan bay qua. Khi nhìn thấy mấy cái búa đóng cọc diezen đen sì như cái tháp phóng vệ tinh nằm chình ình trên công trường nhà máy thì ông chủ yêu cầu hắn mang bản vẽ thiết kế ra xem. Nhìn cái móng cọc bê tông cốt thép đóng bằng búa máy, ông chủ rút cái bút bi mực đỏ choé, gạch xoẹt một cái, chửi đám dự án tối tăm mặt mũi: “Các anh có khùng không mà mang búa máy đóng cọc năm tấn ra dội bom ngay sát khu bồn xăng dầu, ngay gần hệ thống máy chiết nạp tự động sai số micrometer này hả? Hả?”. Cả đám Ban dự án tái tím, mặt xanh như đít nhái, dái thót lên cổ. Nhà thầu đề nghị chuyển qua ép cọc theo phương pháp nén tĩnh, chi phí cho giải pháp này, dự toán tăng thêm hơn chục tỷ. Biết chuyện qua một nhân viên kỹ thuật của Ban, tôi gửi Pháp một email giới thiệu: Rằng công ty Hải Hà sẽ thực hiện dự án với chi phí thấp hơn chi phí đã đấu thầu, bằng một thiết kế tốt hơn bản thiết kế đấu thầu về chất lượng, đặc biệt phương pháp thi công đảm bảo không gây chấn động với công trình lân cận. Tôi sẽ trình giải pháp, nếu bên Ban cam kết sẽ cho Hải Hà thi công khi ông chủ Hà Lan chấp thuận sử dụng giải pháp đó. Chết đuối vớ được cọc, Pháp phải tìm mọi cách thuyết phục chủ đầu tư đồng ý yêu cầu của thằng nhà thầu là tôi. Cả Ban dự án và chủ đầu tư ngớ ra khi tôi mang đến bản thiết kế thay thế cọc bê tông cốt thép đúc sẵn bằng cọc khoan nhồi … “Giải pháp tuyệt vời”, ông chủ Hà Lan khó tính đã thốt lên như vậy sau khi nghe tôi thuyết trình biện pháp thi công và ông ta ôm chặt tôi, ép cái đầu tôi vào ngực ông ta (vì cái đầu tôi chỉ cao ngang nách ông Tây) đến nghẹt thở. Và phát ói, vì không hiểu sao nách bọn Tây nó nặng mùi đến vậy.

 Tôi được giao thi công con đường dẫn với giá đặc biệt, theo đúng chi phí chủ đầu tư phê duyệt không phải chi một phần trăm nào - Pháp cam kết vậy. Tôi chỉ cần có mặt với nhóm quản lý của mình. Máy móc thiết bị, nhân công, vật tư… đều đã có sẵn của các nhà thầu trước bỏ chạy, bị bắt vạ… Tôi sẽ được mua lại, thuê lại với giá hết sức mềm và Pháp sẽ cho ứng ngay tiền để trả… Tôi chỉ cần có mặt sớm với bộ máy quản lý, thi công… 

 Bộ máy quản lý thi công, tôi nhếch miệng cười, năm ngoái tôi đã cho tất cả nhân viên công ty nghỉ việc và hiện vẫn còn nợ lương của họ. Tôi đăng báo tuyển gấp một kỹ sư xây dựng có ít nhất ba năm kinh nghiệm xây dựng thuỷ điện, thành thạo vi tính, biết vẽ và lập dự toán. Nội dung tuyển dụng ghi rõ sẽ phải làm việc tại một công trình thuỷ điện miền núi, hiện vẫn còn sốt rét, lương được trả gấp đôi nhưng chỉ được nhận khi quyết toán công trình… Trong hai ngày, không có ứng cử viên nào gọi tới, tôi phải hạ tiêu chuẩn: nhận luôn kỹ sư mới ra trường, không yêu cầu kinh nghiệm, trong ba ngày tiếp đó, cũng không có cuộc gọi nào. Vào buổi tối cuối cùng có một kỹ sư mới ra trường hỏi về công việc. Không quan tâm làm gì, ở đâu, chỉ hỏi xem có đúng tôi sẽ trả lương gấp đôi như cam kết không. Đúng là một kẻ chỉ biết đến tiền. Lúc khác, tôi đã từ chối, tiễn đưa anh ta với vài lời mai mỉa. Nhưng trong tình thế này, tôi đành vớ lấy ứng viên duy nhất với khoản lương hai mươi triệu đồng và khoản thưởng cuối công trình. Hai thầy trò hẹn gặp nhau ở bến xe 4 giờ 30 sáng mai để cùng đi Quảng.

Cộng sự là một thanh niên trẻ đã tốt nghiệp hơn hai năm, không có việc làm nên gia nhập đội quân xe ôm để tạm kiếm sống qua ngày. Anh ta chỉ có kinh nghiệm đưa đón khách, chở mấy em mỏ xanh mỏ đỏ chiều chiều cập bến đỗ, chứ hoàn toàn chưa có một chút khái niệm thực tế gì về công việc thi công. Hơi cao, tóc cắt ngắn, mắt sáng, miệng có duyên. Ứng cử viên gặp ngoài đời dễ mến và thân thiện hơn con người hôm qua trả treo với tôi về lương, thưởng qua viber. Tôi và Hiệp bắt xe khách đi đến Đức Phổ, từ đó bắt tiếp hai chuyến xe khách, một chuyến xe ngựa mới đến công trường. “ Em không ngại đi xa thành phố à?”- tôi hỏi Hiệp khi đã ngồi yên trên ghế chiếc xe khách liên tỉnh. “ Không. Em là dân gốc quê. Mẹ em vẫn sống ở ngoài Quảng. Em ra trường hai năm về quê không kiếm được việc làm nên quay lại thành phố chạy xe ôm. Em vẫn nói dối với mẹ đã tìm được việc ở thành phố. Chắc việc anh rao không có kỹ sư nào nhận phải không?”. Tôi cay đắng gật đầu thú nhận: “ Họ ngại lên miền rừng!”. “ Em liều đi với anh vì em cần tiền. Hồi em ra trường, ghé về thăm mẹ, mái nhà tranh nhà em bị mối mọt sắp sụp rồi…Em hứa cuối năm trước, nhận năm lương kỹ sư đầu tiên sẽ về dựng lại mái nhà tranh cho mẹ, nhưng hai năm rồi em chỉ kiếm đủ để trả tiền trọ, tiền sinh hoạt. Sau công trình với anh, em sẽ trở về. Chỉ sợ không kịp, em chưa về, mùa bão tháng Tám, có khi mái tranh nhà em đã đổ sụp!...”

***

 Gặp gã Pháp 15 phút, đi xem thực địa 60 phút, lê la qua mấy lán công trường buổi chiều, tôi đã nắm bắt được thực tế, có đủ dữ liệu cơ bản cho cái hợp đồng thi công mà tôi sắp dấn thân vào.

Đó là con đường dẫn nối vào dự án, con đường này bắt buộc phải hoàn thành mới đưa thiết bị vào thượng nguồn sông khi đó mới thi công đập chính của nhà máy điện được và khi đó cũng mới nhận được giấy phép khởi công từ chính quyền. Nếu con đường dẫn không thi công xong trong hai tháng tới thì dự án có thể bị dẹp, tất nhiên, cái ghế trưởng Ban của Pháp cũng bay luôn.

Đã có ba nhà thầu bỏ chạy chứ không phải bị đuổi như gã Pháp nói. Nhà thầu thứ nhất bị Pháp ép giá, liều nhận giá thấp, thi công được hai tuần, nhận được tiền tạm ứng, đêm xuống kéo xe máy trốn sạch. Sáng ra, không thấy công nhân ngoài công trường, Pháp xuống kiểm tra, chỉ còn lán không, bãi trống. Nhà thầu thứ hai thi công đường dẫn đến suối Nậm Cóc thì liên tục gặp sự cố, máy đào ép cừ, ép luôn cả hai công nhân dưới hố móng chìm ngập xuống bùn chết sặc, cái xe lu ba bánh chạy chậm như rùa lại cán nát người công nhân đang ngồi uống nước. Cái ông công nhân hôm đó như có vấn đề về tâm thần, cứ ngồi ngay giữa đường uống nước, đám thợ hồ thi công gần đấy thấy cái xe lu cứ lù lù lăn tới gọi ầm lên nhưng kỳ lạ cả lái máy, cả ông công nhân điếc đặc không nghe thấy. Hôm sau, người nhà ông công nhân kéo lên đòi mạng, cả công trường “toang”. Nhà thầu thứ ba được giao giá cao, được hứa hẹn sẽ được giao tiếp phần đập chính cả trăm tỷ nên hùng hổ kéo cả đại binh tới, xây dựng nhà ăn, canteen, dàn xe máy đậu kín bãi đất trước suối… Thi công được một tuần, tay chỉ huy trưởng đang trưa ra suối tắm cứ nồng nỗng chạy về lán, gặp ai cũng ôm gì lấy khóc lóc: “Anh ơi đưa em về nhà, anh ơi đưa em về nhà, nhà em ở bến Lâu… Nhà em ở bến Lâu…”. Ít ngày sau, họ đang hạ dầm cầu bê tông qua suối thì cần cẩu gãy cái rụp, dầm bê tông rơi xuống vỡ làm đôi, công nhân phụ cẩu bị dầm đè chết. 

Đúng là tôi chỉ cần mang bộ máy quản lý đến, mọi thứ khác đã có  đủ: các đội thi công, lán trại, xe máy, công nhân, cốp pha…. Tất cả bọn họ đều là chủ nợ nhà thầu thứ ba bỏ chạy, quay ra ăn vạ Ban dự án và gã Pháp đã giữ lại cho phương án gọi tôi lên với lời hứa sẽ thanh toán hết nợ khi tiếp tục thi công với Hải Hà – tức là công ty tôi. Mấy ngày qua họ chờ đợi tôi như chờ một vị cứu tinh, chờ một ân nhân. Họ chờ một người đầy hi vọng mà tay Pháp vì để tự cứu hắn khỏi áp lực đòi nợ nên đã vẽ vời thêm về tôi như một giám đốc đầy quyền năng, một người thực chứ không phải một Godot ất ơ nào đấy. Khi vị cứu tinh xuất hiện thì họ bám chặt không rời nửa bước. “ Anh Hai- một tay tóc rối bù để ria mép lên tiếng – Em là chủ máy đào ủi, anh Hai cho em thưa chuyện”; “Em là chủ dàn lu rung, máy san, xe tải  ben”;  Tay cao khều, đen nhẻm như than cốc mỏ cọc sáu luôn bám sát phía sau tôi, cất giọng Nghệ : “ Em lái đào 07, chủ xe em xin cho làm tiếp”. Có ba ông thầu nhân công mỗi ông có vài chục lính đều người miền Tây… Chỉ trong buổi chiều bộ máy công trường coi như đầy đủ, tôi ghé Ban dự án thống nhất hợp đồng, quyết định ngay ngày hôm sau sẽ khởi công.

Cô gái áo hồng ăn diện khá sexy vào gặp tôi khi đám đàn ông ồn ào, suồng sã đã lui ra. Sáng nay, khi vừa từ xe ngựa xuống, tôi đã bắt gặp cô nàng từ dưới suối đi lên, tuồng như ra suối gội đầu, mái tóc dài bết vào trước ngực ròng ròng nước. Trông đẹp và hấp dẫn.

“Em tên Thu… Em theo anh Cường lên đây mở căn tin… Anh cho em tiếp tục lo cơm nước cho công trường nhé?”

“Anh không tổ chức bếp.”- Tôi lạnh tưng – “Anh mệt vì vụ này nhiều rồi! Đám lái xe, lái máy không thể chiều nổi, đứa chê mặn, đứa chê nhạt… cuối cùng bếp nào rồi cũng giải tán…”

 Tôi nói thực lòng. Tôi có quá nhiều kinh nghiệm không vui về mấy ông giặc lái ở công trường, hồi ở Long Hậu tôi mất cả một đống tiền mua dụng cụ nhà bếp, nấu ăn nửa năm thay đến bốn đầu bếp, cuối cùng cũng phải dẹp.

  “Anh Hai nói vậy… Em hiểu… Nhưng ở đây không có hàng quán bên ngoài. Công nhân phải chạy ra mãi ngã tư mới có tiệm ăn, quay về cũng gần bốn chục cây số. Anh sẽ bị mất luôn nửa ngày công”- Nàng nhìn tôi với đôi mắt nâu đẹp, buồn, phân tích rõ ràng thuyết phục. Nhưng thấy tôi im lặng, thì đôi mắt nâu bắt đầu ướt mèm: “Cứu em với anh Hai! Em dồn hết tiền bạc cho cái căn tin này rồi. Nay, không bán chắc em chết!”.

Nếu tôi từ chối, kịch bản tiếp theo có thể cô ta sẽ gào khóc. Tôi quá ngán cái kiểu khóc lóc của các em gái miền Tây, hơn nữa, cô ta nói cũng có lý: ở xung quanh không có hàng quán nào cho công nhân. Mà đám công nhân, nhất là đám lái máy, không thể thiếu quán xá, nơi họ cần mua ít thuốc, trà, mì gói, cà phê và ngồi đấu hót với nhau sau giờ làm việc…

Khi tôi chuẩn bị tắt đèn đi ngủ sau một ngày ngược xuôi vất vả thì cái cửa liếp bằng lá tranh kêu lẹt xẹt. Thật bất ngờ, Thu ôm mớ chăn mền, gối, mặc quần áo ngủ mỏng tang, phô ra tất cả đùi ngực trắng nõn, nhào vào thẳng cái giường sắt. Tôi thét lên sửng sốt: “Cô làm trò gì vậy hả?”. Thu vẫn nằm trên giường, kéo mền phủ kín đầu, cười khùng khục :

“Sếp à, trong hợp đồng em với giám đốc trước có điều khoản tối tối em phải qua ngủ chung.”

Tôi giật tung cái mền cuộn tròn, đẩy cửa, ném ra ngoài:

“Cô cút ra ngay! Cút ngay! Với tôi không có cái điều khoản ngủ chung ấy. Cái thằng trước không biết kiêng khem nên mới vậy! Nó ngủ với cô ngay ngày hợp long nên cần cẩu sập là phải. Nếu cô còn muốn ở công trường này thì từ nay đừng có giở trò mèo với tôi!”

***

Thực ra, công trường thiếu một thiết bị quan trọng, một chiếc cẩu lớn, cẩu trên 50 tấn, có tầm với trên 30 m, để có thể lắp đặt dầm cầu qua con suối. Tháng trước, ngay sau khi tai nạn xảy ra, tay chỉ huy công trường trốn mất dạng, tay lái cẩu cũng tìm cách bôn tẩu. Chủ máy lên công trường ăn vạ đòi tiền thuê cẩu, tay Pháp không trả, dây dưa, tìm cách neo cẩu lại thi công tiếp. Nhưng tay chủ cẩu thuộc loại anh chị không chấp nhận, sau khi đổ ụp không biết bao nhiêu cứt đái vô mặt Pháp và Ban dự án, ông ta thuê xe tải thùng chuyển chiếc cẩu đi. Tay Pháp ngày nào cũng qua công trường kiểm tra xem tôi đã đưa cẩu về thi công chưa. Hắn suốt ruột phát điên lên khi nhìn thấy cái bãi đầu cầu bên này vẫn trống không, chỉ thấy mấy cái thùng phi rỗng và mấy công nhân đang cưa những khúc gỗ tròn… Mặt hắn đỏ lên như gà chọi hiệp hai, cúi gằm xuống: “Ông tính sao?”.

Tôi không thể thuê một cái cẩu 50 tấn. Muốn thuê tôi phải về thành phố tìm, và phải có tiền, ít nhất phải trả trước một tháng thuê cẩu nhẹ cũng trên trăm triệu và tiền vận chuyển chiều đi không dưới 20 triệu. Tôi đang khô túi, nói theo ngôn ngữ của đám công nhân đít móc ba ngày không thấy cứt, thì làm sao có thể thuê cẩu.

Nhưng tôi đã có cách, ngay hôm khởi công, tôi cho công nhân đúc ngay cái dầm bê tông bị gãy, dùng phụ gia tăng cường độ 7 ngày (R.7). Tôi sẽ lao nhịp cầu theo phương pháp thời làm công binh bắc cầu dã chiến không cần xe cẩu.

Tôi đã lao hàng trăm nhịp cầu dã chiến như vậy trong chiến tranh, thời gian làm lính công binh. Tôi đang học dở năm thứ tư trường Bách khoa thì được động viên ra trận, sung vào một đơn vị công binh. Thời gian quân ngũ của tôi là đi bắc cầu. Những cây cầu tạm trên những con đường thời chiến, không có bất cứ chiếc xe cẩu nào, chỉ với sức người… Tôi là dạng lính tráng chưa một lần chạm mặt phía bên kia, chạm mặt đối phương, nhưng chạm mặt cái chết thì hàng ngày. Cái chết từ trên trời bất ngờ dội xuống.

Tôi cho dầm cầu trượt trên con lăn là những thanh gỗ tròn ra sông và gối lên ngay những cái phao ghép bằng gỗ với các thùng phi. Sau đó tôi cho đắp chặn suối phía dưới cho nước dâng lên, các phao gỗ thùng phi cũng nổi lên. Nhẹ nhàng tôi kéo cái bè chở dầm cầu vào đúng vị trí sau đó cho hạ bè xuống đặt dầm vào trụ cầu.

Cận ngày thi công lắp dầm cầu theo tiến độ, không thấy xe cẩu đâu, gã Pháp hộc tốc chạy xuống tìm tôi để dằn mặt. Gã vừa đi vừa chửi tôi qua điện thoại, giật mình sửng sốt khi nhìn xuống suối thấy cầu đã bắc xong. Gã sung sướng thét lên như bị điên.

Vượt được qua con suối coi như tôi đã hoàn thành 70% nhiệm vụ. Các công việc còn lại cứ làm tuần tự theo thời gian… gã Pháp trong cơn sung sướng đã đồng ý chi trả tất cả các món nợ của công ty trước đối với công trường, tôi cho tất cả nghỉ hai ngày, đầu tuần sau thi công tiếp.

  Tôi dúi vào tay Hiệp chiếc phong bì: “Tiền thưởng em cho việc hợp long cầu!”.

Nó sung sướng rên lên: “ Em thấy mái nhà của mẹ rồi anh! Em đang mơ ngày trở về nhà trong túi có tiền… Lần đầu em được thưởng vì nghề kỹ sư của em đấy! Em rất vui …”. Sáng hôm sau, gặp tôi bên suối, Hiệp cười tươi: “ Đêm qua, em mơ kỳ lắm… Kỳ lắm… Nói anh đừng cười: em mơ em về nhà móc túi nào cũng đầy tiền. Chỉ lạ là: toàn tờ 200 đồng mới tinh anh ạ. Đồng 200 bây giờ có ai tiêu nữa đâu! Có điềm gì không anh?!” .

Tôi cũng trằn trọc suốt đêm qua không ngủ được. Nhưng tôi không mơ, tôi không ngủ được vì những phép tính thiết thực. Từ lâu nợ nần đã nhấn chìm dự tính tương lai của tôi. Nhưng đêm qua, tôi quay lại những phép tính cũ: với giá được giao, tôi sẽ có lợi nhuận ít nhất 15% khi thực hiện xong hợp đồng, chỉ với con đường công vụ dẫn vào đập chính nhà máy nhiệt điện, tôi sẽ có gần năm tỷ… Tôi sẽ trả hết được các món nợ hiện tại, chuộc lại giàn máy khoan cọc nhồi và cái công ty xây dựng của tôi lại có thể trương biển lên ở ngay trung tâm thành phố.

Sau công trình này, tôi cũng không đi đến miền rừng nữa.

***

Dư âm của mấy ly rượu Tây mà chủ đầu tư thưởng cho bên thi công trong tiệc  mừng hợp long cây cầu qua suối Nậm Cóc làm tôi tỉnh dậy với cái đầu nặng trĩu… Tiếng động cơ của mấy chiếc máy đào ủi từ bên kia suối dội về làm tôi phấn chấn, chỉ cần băng qua ngọn đồi kia là chúng tôi sẽ đến đích.

Tôi vừa đánh răng xong, thì tiếng máy đào đang gầm rú bên kia sông im bặt. Cậu kỹ sư đầu trần, người trần đang chạy băng qua cầu hướng về lán công trường.

Hiệp thở không ra hơi khi gặp tôi ở trước lán :

“Nguy to rồi anh. Máy đào vừa chạm vào một cái đầu… đầu người …”

“Đầu người hay đầu lâu?”

 “Dạ! Đầu lâu! - Hiệp lứu cả lưỡi - Cái… cái hộp sọ người!…”

Tôi không nói gì, mặc quần, giật ngay chiếc áo sơ mi treo trên tường, rồi vừa chạy vừa mặc, theo Hiệp băng qua cầu sang bên kia suối.

 Người lái máy đào 07 đen ngòm như than cốc mỏ cọc sáu, nhào lên đón tôi giữa cầu, nói không ra hơi: “Kinh khủng… kinh khủng… em vừa đưa gầu lên…”.

Tôi bước đi hụt hẫng như bị rơi chân xuống hố sâu.

Tất cả đám công nhân đều ngừng việc bu lại như đang xem gánh Sơn Đông mãi võ ở chợ quê, mắt dán vào chiếc đầu lâu đang nằm ngay trên đám đất do gầu máy đào xả xuống… Tôi bước ngay tới, cởi chiếc áo ra và nhấc chiếc sọ người lên đặt ngay vào chiếc áo gói lại ôm trước ngực… Trong tôi, ký ức tươi rói về một tai hoạ tương tự khác ập về.

Tôi nhận được hợp đồng xây dựng một biệt thự trên một nền nhà phố cũ vừa phá dỡ. Chủ mới quan chức bên dầu khí đang phất nên khá hào phóng. Tôi vui sướng đến cứ nhảy cẩng lên vì đã hai tháng thất nghiệp do không tìm được việc. Ngay khi vừa ký hợp đồng tôi đã cho ngay cái ông bạn thân kết nối tôi với chủ biệt thự cái xe 81 giọt lệ vàng tôi đang cưỡi với niềm tin sẽ mua được một cái vespa mà tôi từng ao ước từ thời sinh viên. Trời đất, đang đào móng thì đám công nhân khui lên một cái trống đồng, mặt có hoa văn chim Việt… Tôi chưa biết nên làm gì, đang mải ngồi ngắm cái mặt trống thì ba vị tự xưng là cán bộ sở văn hoá mặc sơ mi trắng bỏ trong quần, có đeo thẻ xanh trên cổ ập vào. Hoá ra, thằng kỹ thuật thi công có người quen bên sở văn hoá nhanh nhảu gọi điện báo cơ quan chức năng phát hiện ra cổ vật… Mất một buổi sáng với mấy quan chức văn hoá để lập biên bản thu giữ cổ vật, bị đuổi ra khỏi mặt bằng, ngay đó công trình bị niêm phong. Bước chân ra cổng, đã bị chủ nhà chặn lại cho một đống cứt đái lên đầu vị tội ngu xuẩn, quá ngu xuẩn làm hại anh ta. Giờ thì biết đến khi nào họ có nhà… Ít ngày sau, một ả ăn mặc rất mode, mặt mỏng dính như cá thờn bơn đến gặp chủ nhà bảo chi ngay hai trăm triệu sẽ chạy cho khỏi bị đưa vào hồ sơ địa chỉ di tích lịch sử. Gã chủ nhà bị hù doạ sẽ bị mất luôn quyền sở hữu đám đất vàng mặt tiền, đành chấp nhận chi tiền. Ông ta bắt tôi phải chịu trách nhiệm một nửa số tiền trên. Tôi không chấp nhận. Lập tức, cái hợp đồng thi công đầy hi vọng, bị xé nát, bay lả tả theo gió trên vỉa hè. Tôi mất luôn chi phí tập kết thiết bị, máy móc và chi phí thi công gần một tuần. Hoá ra con mẹ thờn bơn chỉ nhân cơ hội lừa đảo chủ nhà kiếm tiền chứ không có quan hệ gì với bên Sở Văn hoá. Mất tiền, Sở Văn hoá vẫn niêm phong khu đất lại, tạm ngưng thi công trong thời gian họ chuyển cái trống đồng đi giám định. Bất ngờ, hai tháng sau họ ngã ngửa ra khi nhận được kết qủa: cái trống đồng đó là hàng giả cổ, chưa đủ mười năm tuổi. Hoá ra, chủ nhà cũ xưa chuyên buôn đồ cổ, họ có mua một số trống đồng giả cổ. Cái trống bị nứt vỡ, bên mua không nhận, họ để ra vườn sau làm chậu trồng cây cảnh. Rồi nó bị vùi lấp xuống đất.

***

Bài học trống đồng năm xưa làm cho tôi lạnh gáy nhưng cũng gợi mở cho tôi việc phải làm ngay là phải chặn hết các cuộc điện thoại từ đám kỹ thuật, công nhân, có thể bột phát đưa tin ra ngoài. Tôi quay ra đám công nhân đang sợ sệt và tò mò: “Có ai khi phát hiện ra sọ dừa đã bàn tán và nói những từ như “sọ dừa”, “hộp sọ”,“đầu lâu”… không?” - Tôi nhấn mạnh với giọng nghiêm trọng: “Tuyệt đối không được nói lời xúc phạm liên quan đến thi hài người xấu số. Ai nói sẽ bị xui xẻo, ai đã lỡ lời, bây giờ hãy nói thầm lời xin lỗi, và khi nói hãy đưa tay về phía đầu lâu trả lại những từ đã lỡ nói...”

Tôi đưa cái đầu lâu lên cao ngang ngực, xoay người chầm chậm, đúng một vòng tròn.

“Công ty cho công trường nghỉ buổi chiều nay. Anh Nam - tôi nói to với chỉ huy trưởng công trường – cho mua ngay một con dê, xẻ thịt làm mấy món cúng. Tất cả anh em công trường vẫn được tính nguyên ngày công. Chiều nay, chúng ta sẽ tham gia lễ an táng cho người xấu số. Tất cả lưu ý, để tránh xui xẻo, tránh bị hồn ma theo ám, không ai được nhắc đến sự việc này”.

Tôi chỉ giữ một người công nhân ở lại, rồi bảo Hiệp kỹ thuật chạy về lán mang xuống nén hương. Tôi thắp hương, khấn vái vong linh người xấu số, rồi ra lệnh cho Hiệp và người công nhân xuống hố móng gạt lớp đất phía trên. Khi lớp đất được gạt hết lộ ra lớp vải xanh, tôi bảo người công nhân dừng lại quay về lán lấy giúp tôi chiếc áo mưa và gọi thêm hai người công nhân lớn tuổi. Tôi viết ra giấy những thứ cần mua trong đó có một bộ quan quách, đưa tờ giấy, tiền cho Hiệp và không quên dặn Hiệp không được nói gì về việc xảy ra ở công trường. Hãy khịa ra việc mua về một địa danh khác để cải táng ông bà.

Tôi bước xuống hố móng, đụng tay vào lớp áo vải quân phục, lập tức nó vỡ vụn ra… Tôi giật mình… dưới hố móng không phải một mà hai bộ xương người, lần lên phía trên còn một sọ người nằm ngay trong chiếc nón sắt, bên cạnh là chiếc nón cối còn trơ phần dưới, phần trên đã bị gàu máy đào kéo lên cùng hộp sọ.

 Hai người lính nằm sát nhau, song song, hai cái đầu có lẽ chạm nhau. Cả hai nằm nghiêng quay mặt vào nhau. Tôi kéo hết các mảnh vụn quần áo đã bục, lộ ra hai bộ xương và chi tiết đập vào mắt tôi là cánh tay của người lính đội nón cối vòng ra phía sau lưng của người lính đội nón sắt, những ngón tay giữ chặt cán một con dao găm. Lưỡi dao xuyên thấu qua ngực của đối phương. Tôi moi đám đất phía sau lưng người lính đội nón cối, tìm thấy bàn tay của người lính đội nón sắt cũng đang cầm một con dao găm khác, lưỡi dao nằm trong bầu ngực của người lính đội nón cối.

Tôi ngước nhìn lên, ngay trên đầu tôi là mỏm núi đá nhô ra sông, ngay lập tức tôi hình dung ra tất cả: Một cuộc đụng độ giữa hai bên rất khốc liệt ở mỏm núi trên kia, một trận đánh có thể kéo dài ngày này qua ngày khác, hai bên đã bắn đến viên đạn cuối cùng… Vào phút giây sinh tử, hai người lính giáp mặt nhau, vứt súng nhảy vào nhau đánh giáp lá cà, trên tay họ chỉ còn hai con dao găm, một con dao Made in U.S.A và con dao kia không có nhãn hiệu. Họ vung dao lên đâm xuyên ngực đối phương và ôm ghì lấy đối phương để ấn mạnh lưỡi dao nhằm giết chết địch thủ. Cú nhảy bổ ấy, cũng làm họ mất thế cân bằng nên ngã nhào ra khỏi mỏm núi rơi xuống vực.


Minh họa bởi AI.

Cú rơi từ độ cao hơn 20m xuống đám sỏi bờ sông, cùng với cú đâm xuyên ngực đã làm họ chết ngay tức khắc. Hai cái xác chết nằm yên trong tư thế ôm nhau… Họ nằm ở đấy bốn mươi năm qua, thân xác phân huỷ, tan rữa theo thời gian và dòng sông cứ theo thời gian vùi lấp xác họ dưới lớp sa khoáng, cuội, sỏi… cho đến khi chúng tôi đào đất làm đường.

Tôi giấu hai con dao găm vào lưng quần, rồi bước lên hố móng đứng chờ mấy người công nhân. Khi họ tới, tôi nói cho họ rõ những gì tôi biết: ở dưới hố kia không phải một mà có hai người lính, xác đã hoàn toàn phân huỷ, hai bộ xương nằm song song nhau. Họ hãy giúp tôi bốc hai bộ hài cốt lên tách riêng ra, phải rất cẩn thận không làm xáo trộn.

  Tôi gọi điện thoại cho Hiệp, báo em mua gấp đôi những thứ tôi ghi trong giấy vì có hai bộ hài cốt chứ không phải một. Hiệp báo lại đã hỏi nhiều người nhưng họ nói rằng ở thị trấn không có bán tiểu sành. Nếu về thành phố thì phải ít nhất hai ngày em mới quay lại được.

  “Vậy, em hãy tự quyết lấy, em có thể tìm mua hai quan tài nhỏ, hay mua hai cái chậu trồng cây hình chữ nhật tương tự cái quách!”

  Tôi đi lên lán công trường kiểm tra công việc chuẩn bị cho buổi chiều và nghe ngóng tình hình. Tại nhà bếp, con dê đã chọc tiết. Một nhóm đang cạo lông. Trên kệ đã thấy chồng mấy thùng bia, mấy chai rượu trắng và chồng bánh tráng. Thu xắn cao cái quần bò đang hướng dẫn tay tài xế xe tải ben nhặt rau và đứng quay cái đũa cả trong chảo cơm đang chín tới. Thấy tôi, nàng nhoẻn miệng một nụ cười méo xệch như sắp khóc. Có lẽ nàng đang hết sức lo lắng… Chỉ huy phó công trường đã nhanh nhẹn chia hai nhóm chơi bóng chuyền trên cái sân đất trước lán. Hi vọng không có công nhân nào rảnh rỗi để buôn chuyện.

Thấy tôi, người lái máy đào sáng nay tách khỏi đám công nhân đang xem bóng chuyền từ góc sân bước ra:

 “Tình hình sao anh Hai? Chúng ta có tiếp tục thi công không? Em lo lắng quá! Em mang máy lên đây, bây giờ quay về cũng chết mà làm tiếp cũng không an. Hôm trước, nhờ có anh, em lấy được nợ cũ nhưng hôm nay gặp sự cố này em sợ quá!”

  Rồi không đợi tôi trả lời, anh ta nói tiếp:

 “Anh Hai, em đã tìm hiểu kỹ qua mấy người dân làm rẫy điều trong kia. Nơi này âm khí nặng nề!”

 “Em đã nghe họ nói chuyện gì?”

 “Đây xưa là rừng. Rừng nguyên sinh anh Hai. Cây to mấy người ôm không xuể. Có một trung đoàn quân quốc gia và Bắc Việt đụng độ ở đây. Cả mấy ngàn lính quần nhau gần một tháng ròng. Chết la liệt. Sau đó, thì đủ các loại pháo bom dội xuống đây cũng một tháng ròng, không còn một cây rừng nguyên sinh nào còn nguyên dạng. Nghe nói quạ từ đâu bay tới ngập trời bu đen đầy trên đồi kia khi mùa mưa xuống chúng mới bay đi… Em nói anh Hai nghe, cái đồi mà anh em mình sắp đào qua làm đường, cứ đá chân xuống đất là gặp xương người…”.

Câu chuyện chắc sẽ còn dài, nếu không có người công nhân trong nhóm bốc hài cốt hớt hải tìm tôi :

“Bọn em chỉ phân biệt được xương cổ, xương tay, xương chậu… Còn lại không thể phân biệt để tách ra được!”.

 “Em nên lấy chiều dài của xương tứ chi mà phân biệt các xương khác!”

  “Không được! Cả hai người có lẽ chiều cao, vóc dáng giống nhau. Xương cốt họ bị cát đất lấp dịch chuyển trộn lẫn vào nhau…” 

 Tôi theo người công nhân đi xuống hố móng nơi đang bốc hài cốt. Những mảnh xương sườn, ngón chân, ống chân, cẳng chân… không thể phân biệt được của người lính nào được để chung lẫn cùng đá sỏi và đất có màu đen. Không còn cách nào để phân biệt các mẩu xương thuộc về bộ hài cốt nào theo cách thông thường. Chỉ còn một cách. Tôi lấy hai đồng xu bằng đồng ra, thắp nén hương cầu xin sự mách bảo, sau đó đặt cái xương cẳng chân ghép vào nơi để hài cốt người lính đội nón sắt và tung đồng xu lên. Hai đồng xu rơi xuống ngã sấp mặt giống nhau. Như vậy, hai người lính không đồng ý mảnh cẳng chân của người lính nón sắt. Tôi đặt mảnh xương sang hài cốt đối diện, lại tung đồng xu lên. Hai đồng xu rơi xuống, lạ thay, lại rơi cùng sấp mặt, nghĩa là không đồng ý cho bất cứ bên nào?

Lại nhặt một khúc xương ống hỏi tiếp. Dù gieo bất cứ cách nào thì đều không nhận được câu trả lời.

Mồ hôi chảy thành dòng trên trán tôi.

Ngay lúc đó em Hiệp kỹ thuật cũng trở về với những thứ tôi đặt mua: vải đỏ, nến, và hai cái chậu hoa hình chữ nhật thay thế cho hai cái tiểu sành. Khi chứng kiến tôi xin keo mãi không được, em kéo tôi ra ngoài:

“Có lẽ anh nên xin khác đi?”

 “Là sao?”

 “Anh hãy hỏi: “Hai vị có muốn được an táng riêng hai ngôi mộ không?”

Trong lý trí tôi: câu đó hết sức thừa, không cần phải hỏi hai kẻ thù địch đã cắm lưỡi dao găm sâu tận cán đoạt mạng sống của nhau, nhưng trong lúc hoang mang như bị thôi miên, tôi làm theo lời của Hiệp.

Ba lần câu trả lời là: không!

Không thể tin, tôi hỏi ngược lại để kiểm chứng: “Xin hỏi hai vị có muốn được an táng chung trong một ngôi mộ không?”

 Hai đồng xu tung ra rơi xuống tấm nilon nẩy lên, xoay tít mù hồi lâu như có ma thuật rồi đổ xuống: một đồng sấp, một đồng ngửa! Cả ba lần đều vậy.

Buổi lễ từ đó trở đi cho đến khi kết thúc êm thuận một cách kỳ lạ. Hài cốt hai người lính được rửa sạch bằng rượu, bọc trong tấm vải đỏ bỏ vào quan quách. Phần còn trống chèn đầy bông vải. Tôi bỏ vào đó nhiều cục sáp thơm hút ẩm.

  Chúng tôi an táng hai vị trên một gò đất bên bờ suối cách tuyến đường đang thi công khoảng năm mươi mét. Ở đây, trong thời gian tới, hai vị có thể thấy những dòng người qua lại để đỡ cô quạnh. Tôi thắp hương nói ít câu tiễn biệt, từng người công nhân xếp hàng lần lượt dâng hương lên ngôi mộ và vái lạy.

Mấy người công nhân gom củi lại đốt một đống lửa to, nghi ngút khói gần đấy.

Trong không khi ấy, tôi rơi vào tâm trạng như một kẻ bị mộng du, cứ thế đi dọc theo dòng suối dẫn đến bãi đá. Tôi ngồi lại ở đấy trong tâm trạng rối bời bởi tất cả những gì vừa chứng kiến.

Hai con người ấy là kẻ thù không đội trời chung, lẽ ra mối thù ấy sang thế giới bên kia ngàn năm sau, cũng không sao gột rửa được. Sao lại có thể muốn nằm chung bên nhau trong một ngôi mộ, không muốn được tách ra, không muốn về quê hương bản quán… Hay ở dưới suối vàng, sau cái chết đau đớn,  họ đã được khai sáng và hiểu ra tất cả, để có thể cảm thông và tha thứ cho nhau, để thấy nhau là bạn chứ không phải kẻ thù!

***

 Gã Pháp tìm thấy tôi ngay ở bãi đá bên suối. Gã đang khó chịu vì công trường nghỉ thi công:

“Ông hoành tráng thật. Cứ như làm lễ an táng một vị anh hùng! Nếu ông cứ mất thời gian cho những việc như thế này thì khi nào thông tuyến ra thượng nguồn?”.

“Thủ tục không thể không làm ông ạ. Nhân đây, tôi cũng trao đổi với ông luôn: trên mỏm đồi kia còn rất nhiều hài cốt những người lính chưa được thu gom. Ngày xưa, nơi đây là một bãi chiến trường. Nếu ông vẫn muốn thi công theo tuyến thiết kế thì phải báo với địa phương, phải yêu cầu địa phương quy tập hết hài cốt… Còn không, ông phải mở tuyến đi tránh?”.

“Như vậy, thời gian sẽ sao?”

 “Thêm ít nhất một tháng. Phải ba tháng mới hoàn thành.”

  “Ông có điên không! Cả hai phương án đều không! Tôi nói cho ông biết không có phương án nào khác, chỉ có phương án duy nhất theo thiết kế! Chỉ có hạn cuối cùng hai tháng!”

  “Vậy, các ông thi công đi! Tôi không đào bới xác những người lính!...”.

 Dưới ánh trăng, tôi vẫn nhìn thấy bộ mặt Pháp tái dại đi. Hắn vung tay, nhảy chồm chồm như động kinh :

“Mày! Mày! Là thứ không chơi được. Nhưng tao biết tỏng con đường này là đường sống của mày! Lối thoát duy nhất của mày! Mày mà bỏ tao mày cũng chết. Tao biết mày đang nợ như chúa chổm. Mày tự cao, tự đại khi tao gọi nhưng thực ra mày chỉ mong có cái công trình này tao thí cho…thôi… Giờ mày mà bỏ tao, có thằng sẽ tống mày vào tù!”

Hoá ra, hắn đã tìm hiểu rất kỹ thông tin về tôi khi kêu tôi tham gia dự án… Hắn biết rõ, tôi đã cam kết với các chủ nợ dừng kiện, tôi sẽ trả hết nợ khi thi công xong dự án thuỷ điện này.

“Mày có dám bỏ tao không?”

Pháp bước tới chỉ tay vào mặt tôi, răng nghiến chặt, miệng sùi bọt. Tôi gạt tay hắn ra.

“Phải. Tao đang nợ nần! Có thể tao sẽ vào tù nhưng tao không đào qua đồi kia khi mày không quy tập hài cốt những người lính!”.

 “Họ chết rồi. Kệ họ! Tao không đến đây làm nghề gom xác vì tao cũng sẽ chết theo họ nếu làm như mày!” .

Rồi như một gã điên, hắn trợn trừng mắt, giơ hai nắm đấm vào giữa mặt tôi, nhảy chồm chồm như bị động kinh:

“Không! Không! Tao nói không! Mày, mày là thứ không chơi được!

 Tôi né người qua một bên, bước lên bờ suối, quay trở về lán công trường.

***

  Tôi tập hợp tất cả công trường lại. Tôi thông báo công ty Hải Hà không tiếp tục thi công nữa, tôi sẽ đi khỏi công trường. Tôi rất cảm ơn mọi người đã tham gia cùng tôi trong những ngày qua. Tôi xin lỗi vì còn nợ tiền của họ, nợ tiền công mấy ngày qua và không thể trả.

 Tôi rất ngạc nhiên trước thái độ của những người công nhân, lái máy. Hình như tất cả họ đều cảm thấy việc ra đi của tôi là tất nhiên, họ rất buồn nhưng không trách móc và không hỏi tôi bất cứ điều gì.

 Từng người một bắt tay tôi, buồn bã đi về lán, hình như sau sự kiện hôm nay, họ đều đã có những quyết định riêng. Nhiều người nói khi chia tay: tôi đi, họ cũng sẽ rời công trường vào sáng mai. Những người lái máy, họ sẽ còn chờ đợi chủ máy quyết định.

Khi tôi về lán công trường, Thu đã ở đó:

“ Sếp đừng đuổi em tối nay. Xui cũng đã xui rồi, em có ở đây tối nay cũng không làm sếp xui hơn! Hôm nay, sếp an táng hài cốt hai người lính nhiều người cảm ơn sếp đấy. Em cũng cảm ơn. Ba em cũng là một người lính không tìm thấy xác… Biết đâu, trên đồi kia có xác của ba em!”

  “Cũng có thể trên đồi kia có xác của anh trai anh. Cũng là một người lính không trở về. Em còn ở lại đây chờ nhà thầu mới không?”.

  “ Không. Thôi đành mất tất cả sếp ạ. Em về quê. Hi vọng rồi sẽ tìm được một việc gì đó để kiếm lại tiền…”

  “Chúc em may mắn!”

“Em nghe nói nếu sếp bỏ việc này về thành phố, sếp sẽ ra toà, bị bỏ tù?”

“Đúng vậy em! Anh phá sản và nợ …”

“Vậy có khi, em vẫn còn đỡ tệ hơn sếp!”

***

Tôi trở dậy vào 4h00 sáng, Thu vẫn ngủ rất say, tóc loà xoà trên trán. Tôi qua phòng bên, đánh thức Hiệp, hai thầy trò lặng lẽ lên đường. Lại một chặng xe ôm ra thị trấn, bắt xe khách đi tiếp. Cả hai im lặng không nói gì trên đường đi, tâm trạng buồn chán, rã rời… Buổi sáng khá lạnh, sương mù phủ kín hai bên đường, gió đẫm hơi nước xuyên qua khe kính hở.

Hiệp buồn và thất vọng hơn tôi rất nhiều. Có thể vì em còn trẻ, vì em đặt nhiều hi vọng cho công việc ở nhà máy thuỷ điện Nậm Cóc. Khi hai thầy trò ngồi lại bên đường, chờ bắt chuyến xe khách đi tiếp về thành phố, Hiệp dường như thoát khỏi trạng thái u uẩn:

“Em cứ nghĩ mãi về hai người lính, về hình ảnh họ ôm nhau chết!”

“Anh cũng vậy. Cả đêm qua anh không ngủ được. Không phải vì công việc thất bại mà vì bị ám ảnh về họ…”

 “Anh ạ, em nghĩ có lẽ hai người lính là những người còn sống sót sau trận đánh ác liệt, kéo dài nhiều ngày trên mỏm núi, trong khoảng rừng nguyên sinh thượng nguồn con sông… Một người lính bị thương nặng cố lết ra suối lấy nước uống và kiệt sức gục xuống. Người lính kia cũng lần ra suối để tìm nước. Sau giây phút hoảng sợ, nhận ra đối phương đã không còn khả năng gây nguy hiểm cho mình, người lính kia áp sát đối phương, thu ngay vũ khí, và lục tìm hết các túi quần áo… Người lính cần thực phẩm, thuốc chữa bệnh… ít thuốc lá, hộp quẹt…

  Người lính có thể đã tìm thấy trong túi đối phương một bức ảnh, một lá thư, một cuốn sổ tay ghi chép… Người lính này quỳ xuống bên người lính kia, xem bức ảnh, tò mò đọc lướt qua lá thư, đọc ít dòng trên cuốn nhật ký nhàu nát… Hoá ra, họ cũng ra đi từ một làng quê nghèo… Hoá ra, họ, cả hai đều ra đi với niềm tin tươi sáng về ngày mai, về hoà bình, lòng mong mỏi kết thúc cuộc chiến để trở về nhà… Họ ra đi để lại người mẹ già, để lại cô em gái đang học dở dang trung học… Họ đều có một mái tranh ở một vùng quê mà có thể sẽ sụp xuống vào mùa mưa bão sắp tới… Có thể trong túi áo người lính có một lá thư đang viết dở: “Mẹ ơi, hết chiến tranh con sẽ về dựng lại mái nhà tranh cho mẹ!…”.

“…”

“Người lính đã khóc khi đọc bức thư ấy, đã khóc khi đọc những dòng ghi chép ấy. Trong túi anh cũng có một lá thư như vậy: “ Mẹ ơi, con sẽ trở về…”. Thay vì giết người lính đối phương, anh ấy đã cúi xuống nâng người lính ấy lên và dìu đi. Rồi trên đường đi vào bờ suối, họ kiệt sức và nằm lại ở đấy. Họ lịm dần, rồi chết trong tư thế ôm chặt lấy nhau…”– Hiệp quay lại hỏi tôi, nước mắt chảy dài trên má em – “Anh có nghĩ vậy không?”

 Tôi đặt hai bàn tay lên đôi vai gầy đang rung theo tiếng nấc của em:

  “Anh cũng nghĩ như vậy! Cả hai người lính đó, họ ra đi từ một làng quê, một làng quê nghèo, ra đi từ một mái tranh lợp bằng rạ, lợp lá dừa… Họ là trụ cột của một gia đình. Ra đi, để lại mẹ già không có ai chăm sóc, để lại cô em gái bé nhỏ, để lại mảnh vườn không ai cày cuốc… và họ đều mong ngóng một ngày nào đó hết chiến tranh trở về lợp lại mái tranh cho mẹ…”

Đến thành phố, tôi bảo Hiệp ngồi lại chờ trong một quán cà phê. Tôi đi bộ qua dãy phố bên cạnh, nơi có những cửa hàng bán đồng hồ, máy ảnh, đồ trang sức. Cái đồng hồ, tài sản có giá nhất trên người, tôi đã mua ở đây mười lăm năm trước khi hoàn thành một công trình được chủ đầu tư thưởng. Chỉ có thể bán chính ở đây mới được giá. Chủ tiệm nhận ra nó ngay khi xem mặt sau đồng hồ. Ông hỏi tôi bán, hay muốn đổi một cái đồng hồ khác, tôi nói tôi cần bán.

Khi tôi quay lại, Hiệp vẫn ngồi lặng im ở đấy, như vẫn đang chìm trong những ý nghĩ về hai người lính.

Tôi đưa tiền cho em.

“ Cái này không đủ để em thực hiện giấc mơ: trở về nhà với nhiều tiền trong túi, dựng lại ngôi nhà cho mẹ, nhưng có thể giúp em đủ tiền mua vé về nhà, đủ tiền sửa lại mái tranh cho mẹ. Em hãy ở với mẹ một thời gian rồi đi tìm một công việc mới!”

“Anh! Anh đâu có tiền. Em không còn hi vọng em được trả lương!”

 Tôi đưa cái cổ tay chỉ còn hằn vệt dây đeo đồng hồ cho Hiệp thấy, rồi bước nhanh ra cửa, không muốn kéo dài những giây phút chia tay …

 Năm đó, tôi đã ngoài năm mươi, lại một lần tay trắng và sắp bước chân vào tù vì nợ nần…

An Phú 01 tháng 02 năm 2020
Đ.C.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bay trong gió núi - Truyện ngắn Vừ Thị Mai Hương
Tôi nằm đây nghe tiếng lục lạc kêu. Thứ âm thanh đinh đinh đang đang mỗi buổi chiều người ta lùa đàn bò đi qua khiến cho linh hồn tôi cảm thấy thật rộn ràng, vui tươi và khoan khoái lạ kỳ. Cái cảm giác này trước đây chưa bao giờ tôi có được. Giờ thì, tôi đã cảm nhận thấy thật rõ ràng thứ âm thanh đó, cùng với hương vị nồng nồng âm ấm của đất, mùi chan chát mằn mặn của đá, mùi thơm thoang thoảng của cỏ voi, mùi ngòn ngọt chua chua của những bông hoa tam giác mạch ai đó làm vương hạt trên nấm mộ tôi.
Xem thêm
Người phụ nữ nhỏ nhất thế giới - Truyện ngắn của Clarice Lispector
Trong tận vùng sâu thẳm của châu Phi xích đạo, nhà thám hiểm người Pháp Marcel Pretre, một thợ săn và kẻ sành đời, đã bắt gặp một bộ tộc Pygmy nhỏ bé đến đáng ngạc nhiên.
Xem thêm
Chiếc bọc nhung - Truyện ngắn Võ Đào Phương Trâm
Đốp! Con heo đất vỡ toang, mớ tiền nằm xen lẫn những mảnh vỡ, lăn lóc trên nền nhà gạch tàu cũ kỹ, Khiêm nhanh tay mở mấy tờ giấy bạc, bung ra cho thẳng thóm. Những tờ giấy bạc nhăn nhúm, phai màu vì nhuốm mồ hôi và nằm xộc xệch trong cái túi quần khi Khiêm nhét vội.
Xem thêm
Hận thù và Yêu thương – Truyện ngắn Đông Sơn Lữ Khách
Có những vết thương chiến tranh tưởng chừng đã ngủ yên trong ký ức, nhưng chỉ cần một ký hiệu, một hình xăm, một cái tên… tất cả lại ùa về như ngày hôm qua. Thế nhưng, giữa bóng tối ấy, tình yêu của một chàng trai Việt và một cô gái Hàn đã thắp sáng hi vọng – hi vọng rằng hận thù rồi cũng sẽ nhường chỗ cho yêu thương.”
Xem thêm
Kịch hay – Truyện ngắn Lê Hứa Huyền Trân
Vài tấm hình được quăng trên chiếc bàn kính, bên trong hiện rõ hình hai người dường như có cảm giác đang tựa vào nhau nhưng vẫn còn do dự vì bị sự ràng buộc bởi miệng lưỡi của người đời. Bóng chiều tà từ từ đổ xuống khung cửa sổ bằng kính của ngôi nhà sang trọng. Thứ ánh sáng cuối ngày có màu hồng đậm vẫn kịp hắt vào khiến đôi mắt người phụ nữ đột nhiên cũng ửng hồng và bắt đầu đong đầy hoàng hôn trong đó.
Xem thêm
Lời thề sinh tử - Truyện ngắn của Phạm Thanh Thúy
Thuôn không muốn lão Nhạc vào nhà. Lão Nhạc già lụ khụ, ăn mặc lôi thôi, dù con cái lão cũng chẳng đến nỗi nào.
Xem thêm
Người đến từ nghìn trùng – Truyện ngắn Chu Phương Thảo
Tôi sinh ra ở một làng chài nhỏ, nơi những triền cát trắng kéo dài đến tận chân trời, nơi gió và sóng chạm nhau cùng thì thầm những bản tình ca êm dịu. Tuổi thơ tôi trôi qua như một giấc mơ dịu ngọt, vắt qua những buổi chiều vàng nắng, theo tiếng cười hồn nhiên vang vọng bên những mái nhà thấp thoáng khói lam chiều. Cuộc sống tuy chật vật, nhưng lòng người nơi ấy rộng như biển cả, ấm như nắng sớm.
Xem thêm
Trôi trên sông trăng – Truyện ngắn Vừ Thị Mai Hương
Mưa sầm sập. Mưa ào ào. Ánh trăng loang loáng trong làn mưa, vỡ tan trong ánh chớp. Trong màn đêm tối đen mịt mùng, xung quanh chỉ vọng lại tiếng nước đổ ào ào từ trên núi xuống. Tiếng bước chân chạy uỳnh uỵch trong đêm.
Xem thêm
Phán chấu. Truyện ngắn của Nông Quốc Lập
Tiếng gọi cầu cứu của thằng Bun như xé toang khoảng không gian ra thành nhiều mảnh. “Cứu cái gì, cứu ai, cháy nhà à, giết người à, rắn cắn à…?” Tiếng những người làng hỏi nhau, những cặp mắt tròn xoe, ngơ ngác. Dù không biết chuyện gì xảy ra với nhà Bun, nhưng khi nghe tiếng gọi cứu thì ai cũng ra khỏi nhà hướng về nơi có tiếng gọi.
Xem thêm
Bông bí vàng trên giàn mướp hương - Truyện ngắn Phan Thành Đạt
Hưng rón rén bước lên thềm, gõ cửa. Không ai đáp. Chỉ có tiếng chim trên giàn, tiếng cá quẫy nhẹ dưới ao. Giữa khung cảnh ấy, hình ảnh một cậu trai thành phố đứng giữa sân quê bỗng trở nên bé nhỏ, lạc lõng – nhưng cũng là khởi đầu cho một mùa hè không giống bất cứ mùa hè nào trước đó.
Xem thêm
Người đàn bà vẽ tranh kiếng – Truyện ngắn Lưu Kiều Nhi
Tôi về đến nhà đúng lúc ba và chị Hai đang hì hục đem mớ tranh kiếng của má ra cất ở nhà kho phía sau. Tôi biết ngay là má có việc đi đâu đó nên hai người họ mới cả gan đến thế. Chị Hai nói má không chịu ở nhà nghỉ dưỡng bệnh, lại lén đi lặt cuống ớt với mấy người đàn bà trong xóm. Ba cười hiền lành bảo: Kệ bả. Bắt bả ở nhà hơn bắt cóc bỏ dĩa. Lại phụ ba một tay, dọn cho xong đống nợ này đi bây!
Xem thêm
Án ma ni thiên ý - Truyện ngắn Ny An
Ở gần cuối xã Xay Xát, đi qua khỏi con dốc sỏi đá bụi bay xám mặt sẽ tới Quán Phật. Hai lùm thiết mộc lan um tùm đứng trước ngõ hút tài lộc, nở bông ngào ngạt mỗi tối. Quán Phật nằm giữa khu vườn thuốc nam, lắp camera từ ngõ vào tới cửa và phòng khách. Bờ tường gắn lưới thép B40 ngăn khu vườn với dải cát trắng trải dài đầy dứa dại, cây bụi và xương rồng gai nhọn tua tủa.
Xem thêm
Một ngày không xảy ra chuyện gì. Truyện ngắn của Wayne Karlin
Dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, năm 2025, nhà văn Wayne Karlin ở tuổi tám mươi đã viết truyện rất ngắn “Một ngày không xảy ra chuyện gì”, đăng trên báo Washington Spectator với lời giãi bày: “Quãng thời gian tồi tệ nhất mà tôi phục vụ trong lực lượng lính thủy đánh bộ là thời tham chiến ở Việt Nam. Và thời gian đẹp đẽ nhất cũng chính là khi tôi tiếp tục kết nối với đất nước Việt Nam (kể từ sau chiến tranh)”.
Xem thêm
Hoàn lương - Truyện ngắn Võ Đào Phương Trâm
Khải ôm cái túi vải trên tay, bước ra khỏi cổng trại giam, Khải ngước mặt nhìn lên trời, khoảng trời bao la, trong xanh với những tia nắng đầu ngày tỏa dịu ấm áp, bầu trời bên ngoài cổng trại giam rộng lớn hơn nhiều so với khoảng trời bên trong khuôn viên của khám, dù có những lúc phạm nhân ra ngoài lao động thì cũng không thấy mênh mông đến vậy.
Xem thêm
Miếu thiêng – Truyện ngắn Võ Đào Phương Trâm
Đà Lạt! Chiều xám đặc, ánh sáng dường như không len nổi qua ngôi miếu bỏ hoang, nhiều năm âm u với những mảng cỏ dại phủ đầy dưới chân, xung quanh là những tầng cây rậm rịt. Bóng tối như trở thành điểm đặc biệt ở nơi này, và một điều nữa là, chẳng ai bén mảng đến đây, bởi không gian lạnh toát và ám mị.
Xem thêm
Công chúa Ngọc Anh – Truyện lịch sử của Nguyễn Thị Việt Nga
Công chúa Ngọc Anh bước ra khỏi cổng chùa Thiên Mụ thì dừng bước. Gót hài hoa di nhẹ lên bậc đá dẫn xuống đường. Nàng thẫn thờ nhìn dòng Hương xanh ngăn ngắt phía dưới đang lững lờ trôi. Giây lát, đôi mắt trong veo lại hướng lên phía dãy núi điệp trùng.
Xem thêm
Thư gửi nhà văn - Truyện ngắn của Đặng Chương Ngạn
Truyện ngắn đăng trên “Viết & Đọc” chuyên đề Mùa Hè 2025
Xem thêm
Luân hồi - Truyện ngắn Nguyễn Đức Hạnh
Truyện ngắn Luân hồi của Nguyễn Đức Hạnh là một bản giao hưởng đầy ám ảnh về sự trả giá của phản bội và sức mạnh vĩnh cửu của lòng trung thành.
Xem thêm
Biển Hồ mênh mông - Truyện ngắn của Đặng Chương Ngạn
Hành trình tìm nhau giữa nghịch cảnh và nỗi đau không biên giới
Xem thêm