TIN TỨC

Một nốt nhạc trầm

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-02-20 23:45:44
mail facebook google pos stwis
2769 lượt xem

 

Trần Phỏng Diều

(Từ bài thơ Lời tự tình mùa thu của Ngũ Lang)

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – Trong thơ ca truyền thống, mùa thu là nguồn cảm hứng sáng tạo cho bao thi sĩ. Nhưng không biết tự bao giờ, mùa thu thường gắn với nỗi buồn. Dường như trong thơ ca truyền thống chưa thấy bài thơ nào viết về mùa thu mà vui cả, mà chủ yếu là buồn, nếu không quá buồn thì cũng man mác buồn.

Tự bao đời nay, có biết bao thi sĩ mượn mùa thu để nói lên nỗi lòng mình như: Lưu Trọng Lư (Tiếng Thu), Xuân Diệu (Đây mùa thu tới), Tương Phố (Giọt lệ thu)… Có lẽ do bản chất của mùa thu là buồn, cảnh thu, tình thu phù hợp với nỗi niềm của các thi sĩ. Chẳng phải Bích Khê đã nói hộ ta điều đó sao? “Ôi hay! Buồn vương cây ngô đồng, vàng rơi vàng rơi, thu mênh mông”. Cái “thu mênh mông” đó chính là tâm trạng của Ngũ Lang (Nguyễn Thanh). Không ngoại lệ, tác giả Ngũ Lang cũng trang trải lòng mình với mùa thu. Ngay tiêu đề bài thơ cũng đã tạo cho người đọc một cảm giác buồn man mác: “Lời tự tình mùa thu”.


Nhà văn, nhà phê bình Nguyễn Thanh.

Cả bài thơ là một chuỗi hoài niệm và tâm trạng. Tác giả hồi tưởng lại những kỷ niệm ngày xưa, ghi nhớ các việc xung quanh mình. Để từ đó chiêm nghiệm cuộc đời và bộc lộ nỗi niềm tâm sự của mình. Bài thơ gồm 6 khổ, mỗi khổ có chủ đề riêng, xâu chuỗi lại, ta sẽ bắt gặp một câu chuyện, nên có thể nói đây là một bài thơ tự sự, có cốt truyện và nhân vật, có không gian lẫn thời gian. Các yếu tố này đan xen lại với nhau tạo nên tình tiết, sự kiện làm cho người đọc cảm nhận được tâm sự của tác giả, từ đó mà có sự đồng cảm và chia sẻ. Cho nên có thể nói, chủ đề của bài thơ là một nỗi buồn, là sự cô đơn, là một tấm lòng đang yêu và mong muốn được yêu. Là niềm khát khao giao cảm với đời, nhưng đời không đáp lại nên tác giả cảm thấy cô đơn, trống trải.

Ở khổ thơ đầu có từ “độc hành”, đến khổ thơ cuối cùng cũng lại có từ “độc hành”. Vì vậy, có thể nói, xuyên suốt bài thơ là một gam màu tối, là một nỗi niềm muốn sống hết mình với đời nhưng không trọn vẹn. Bài thơ, gợi cho người đọc nhớ về phong trào thơ mới 1930-1945, với một số tác giả tiêu biểu như Xuân Diệu, Huy Cận,… Cái buồn của những nhà thơ này là cái buồn của thời đại, còn cái buồn của Ngũ Lang là cái buồn cô độc của một người muốn sống hết mình với đời. Hai cái buồn ấy vừa có cái chung lại vừa có cái riêng, tạo nên một dòng chảy của các thi sĩ muôn đời về những nỗi niềm, những bâng khuâng muốn được chia sẻ với đời.

Mộng lẻ một mình ta với ta,

Nửa khuya tàn mộng, lệ chan hòa.

Bao giờ tìm được người tri kỷ

Như Tử Kỳ xưa gặp Bá Nha.

Ở đây ta thấy nỗi buồn của tác giả đã có một quá trình, chính vì càng khát khao sống hết mình với đời bao nhiêu thì tác giả cảm thấy buồn bấy nhiêu khi đời không đáp lại.

Thời gian ở đây là nửa khuya. Khi có tâm sự, người ta thường đối diện với chính mình, giữa đêm khuya để lắng lòng, để chiêm nghiệm, nghĩ suy về lẽ sống ở đời. Nội dung hai câu thơ cuối của khổ thơ này hình thức là câu hỏi, nhưng nội dung lại là câu khẳng định. Tác giả hỏi cho có chứ không cần trả lời. Tác giả đang tự hỏi lòng mình và câu hỏi đó mãi mãi sẽ không có câu trả lời. Vì lẽ đó mà tác giả luôn ưu sầu, càng xua nỗi buồn đi thì nỗi buồn càng ùa đến, càng muốn lăn xả với đời thi đời lại quay lưng. Âu cũng là nỗi lòng của các thi sĩ xưa nay.

Cầm cọ pha sơn để quét sầu,

Gam buồn phủ lạnh áng tranh nâu;

Thuốc tàn, rượu cạn, cà phê hết,

Nét vẽ chưa nên, màu nhạt màu.

Hết vẽ, tác giả mượn tiếng đàn ngỏ hầu làm vơi bớt nỗi buồn nhưng nỗi buồn càng thêm sâu lắng:

Ôm đàn mong phổ bài ca dịu,

Cung thứ tê lòng ngập nốt thương!

Hai câu thơ mang âm hưởng Đường thi rõ nét, gợi cho người đọc một nỗi buồn man mác, không bi ai nhưng nhè nhẹ len vào lòng, có ẩn chứa chút gì chiều sâu triết lý của cuộc sống. Có lẽ đây là hai câu hay nhất trong bài thơ này, nó làm nổi bật chủ đề của cả bài thơ. Những từ ngữ được chắt lọc như “cung thứ”, “nốt thương”, “tê”, “ngập”… làm người đọc cảm nhận sâu sắc nỗi niềm tâm sự của tác giả.

Đi qua một chặng đường dài của nỗi đau nhân thế, của sầu triền miên, ở miền miên viễn, cuối cùng tác giả tổng kết lại đời mình: chỉ là kẻ độc hành.

Bài thơ: Lời tự tình mùa thu 

                                    Ngũ Lang

Ta đã yêu từ chớm tóc xanh,
Đêm đêm thức trằng chép thơ tình:
Đón hương góp gió muôn phương lại
Mà suốt đời ta vẫn độc hành!

Mộng lẻ một mình ta với ta
Nửa khuya tàn mộng, lệ chan hòa.
Bao giờ tìm được người tri kỷ
Như Tử Kỳ xưa gặp Bá Nha.

Cầm cọ pha sơn để quét sầu,
Gam buồn phủ lạnh áng tranh nâu;
Thuốc tàn, rượu cạn, cà phê hết,
Nét vẽ chưa nên, màu nhạt màu.

Tiếng dế râm ran trổi nhạc vườn,
Mê hồn nghệ sĩ đắm say hương;
Ôm đàn mong phổ bài ca dịu,
Cung thứ tê lòng ngập nốt thương!

Khai bút đề thơ mong đón xuân,
Thơ không giáng bút, chữ im vần;
Trọn câu dồn dập thang âm trắc,
Vần điệu không êm, ý chửa thông…!

Đời gió mưa từ thuở tóc xanh
Chông chênh như một dấu than mành!
Người thương xa vắng, ghen sao lắm.
Nên suốt đời ta mãi độc hành!

T.P.D

(Nhà văn – Giảng viên trường CĐSP TP. Cần Thơ)

* Bài thơ in trong tập thơ Lời tự tình mùa thu của Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) (NXB Văn nghệ TP.HCM, 2004), cũng đã đăng trên nhiều báo, website văn nghệ. Nhạc sĩ Thanh Danh phổ nhạc bài Lời tự tình mùa thu lấy tựa đề là Độc hành.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm