TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ

Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-08-25 23:05:30
mail facebook google pos stwis
10 lượt xem

NGUYỄN THỊ TUYẾT

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.

Bìa tập tản văn "Nỗi buồn trong suốt"

 

Nỗi buồn trong suốt của Nguyễn Đức Phú Thọ là một tập tản văn như thế. Đây có thể là một thử nghiệm về kỹ thuật viết ở địa hạt mới của nhà thơ trẻ, cũng có thể là một sự kế thừa và phát triển từ tác phẩm đầu tay, Nỗi buồn đập cánh (tập thơ, 2011). Xuyên suốt tác phẩm là mỹ cảm của sự giản dị, trầm lắng khác xa với nhịp sống ồn ào vội vã bên ngoài trang sách. Phú Thọ không triết lý, không gồng mình mà bằng sự tinh tế thiên phú, sự trong vắt của ngôn từ, sự chạm đáy của cảm xúc đã mở ra những đường bay của nghệ thuật.

Cấu trúc của Nỗi buồn trong suốt (tản văn, Nxb. Hội Nhà văn & Cty sách Đông Tây, 2017) gồm ba mươi phiến đoạn được đặt tên khác nhau và ba mươi bức thư cùng được gọi là Thư muộn. Tuy nhiên, 30 đoản khúc Thư muộn lại được đặt ở vị trí trung tâm, sâu nhất trong thế giới nội quan của chủ thể trữ tình. Điều đặc biệt là mỗi phiến đoạn hay mỗi bức thư ấy tự thân lại là một kết cấu hoàn chỉnh và đồng thời nó cũng là một mảnh ghép về cuộc đời nhân vật, về thế giới nội tâm sâu sắc, phong phú, tinh tế và đặc biệt là sự trong veo hiếm có. Câu chuyện nội tâm được xé vụn rồi dán lên trang giấy theo mạch của cảm xúc vô định, thời gian và không gian không còn là trục quy chiếu mà cảm xúc của nhân vật là hệ tọa độ, là la bàn định vị. Song, về cơ bản chúng ta có thể “tự sắp xếp” lại theo logic thông thường, dựa trên những dữ liệu mà tác giả đã rải rác vung ra theo sự dẫn dắt của những hoài niệm, cảm xúc. Toàn bộ câu chuyện như là lời tự thuật về bản thân dưới hình thức một quyển nhật ký, những bức thư viết cho chính mình, nơi mà không cần sự rào đón, sự khách khí, sự dòm ngó của bất kỳ ai, viết là để trải lòng, để đối diện với chính mình, viết như là một hình thức tự giải thoát, tự chữa lành.

Mở đầu tập tản văn “tôi” viết về quán tên tên Trầm, chìm đắm trong màu xanh (lặp lại 18 lần), đôi mắt “tôi” càn lướt, tô màu, tạo khối cho hiện thực rồi phóng xa ra phố (Ở phố, màu xanh thật bất an) rồi phóng sâu vào nội tâm, kỷ niệm (Chợt màu xanh khẽ nhói lên… Đẹp và xanh thơ dại). Tác phẩm khép lại ở phiến đoạn thứ sáu mươi, ở “Dưới vòm hoa giấy, tôi ngồi”, ở “màu trắng tinh tươm” nơi quán tên Phố vắng, ở niềm vui thinh lặng như vốn có, ở niềm tin an trú, bình yên sẽ theo về. Dụng tâm của cách mở đầu và kết thúc ấy cho ta thấy một vòng tròn chuyển hóa, một sự trưởng thành sau bao nhiêu quan sát, chiêm nghiệm và tự vấn.

“Mình”/“Tôi” là một người trẻ, với tuổi thơ không trọn vẹn: một người cha thiếu tình yêu, thừa đòn roi, một người mẹ tận tâm nhưng u buồn và qua đời sớm, một người bà chăm sóc và một con chó ân nhân. “Mình”/“Tôi” đi qua thời gian và tuổi thơ bị lạc mất, bị đánh cắp, bị ép chín sớm, trở thành người hết tuổi thơ. K.D.N.Q. và một vài cái tên khác như Vy, Jun,… hoặc một người chị không tên nào đó, và một người em gái tên My là những khảm ghép nên thế giới của tôi. Những cái tên ấy là những mối quan hệ tình cảm khác nhau, duy chỉ có D. là nam giới, là người “mình”/“tôi” chưa bao giờ gặp, và luôn ghen tỵ bởi D. có được K…

Mỗi cái tên ấy lặp đi lặp lại, choán hết cuộc đời và kí ức “mình”/“tôi”, mỗi kí tự là một thế giới trong “tôi”, nhưng chính tất cả các kí tự ấy cũng ghép thành thế giới của “tôi”. Trong đó K. được xem là trung tâm (xuất hiện 191 lần) và các nhân vật khác đều biết K., mọi vấn đề của “mình”/“tôi” dường như bị xoay chuyển bởi K.K. chưa một lần hiện diện, nên không rõ mặt, có thể là mối tình đầu của tôi, K. gắn với những kỷ niệm về mưa (lặp lại 41 lần), trong một niềm gắn bó giao cảm khó giải thích, và không thể giải thích bằng ngôn ngữ. Sự trong suốt của mối tình như tấm gương luôn soi chiếu những cảm xúc và kỷ niệm trong “mình”/“tôi”, đến khi K. ra đi thế giới trở nên mù mờ và trống rỗng, “nỗi buồn đau trở về thân thuộc” (Thư muộn 30) và đó cũng là lúc “Khi chẳng biết thế nào là vui nữa” (Thư muộn 29). Cột chặt trong tâm trí của “mình” là “K”, từ trong lý trí hay trong giấc mơ, từ quá khứ hay thực tại, từ ý thức đến vô thức. K. là hiện thân của một nội tâm sống động, một quá khứ chưa thể hoàn thành và một tương lai ngoài tầm với, một giấc mơ dịu dàng.

Tất cả những phiến đoạn Thư muộn (30 lần) đều viết về K. những bức thư không bao giờ gửi, có phải vì vậy mà gọi là thư muộn? Muộn khi K. đã bước ra khỏi đời “tôi” hay K. đã về bên kia thế giới? Muộn vì chưa kịp nói hay những bộn bề ray rứt là hệ lụy sau cùng? K. là một cái gì đó không rõ ràng bởi hai người quá hiểu nhau nên chẳng nói nhiều, chỉ dựa lưng vào nhau cùng đọc sách, cùng ngắm mưa khi hai người hòa hợp ở cạnh nhau. Nhưng đến lúc K. ra đi không một lời từ giã, không một lý do. Đó là điều căn bản khiến “tôi” trở đi trở lại, tự vấn bản thân đến ráo riết để tìm một lý do. Dù “tôi” chấp nhận được tất cả song lắm lúc quá mệt mỏi, “tôi” ước bản thân bị lừa dối:

“Sự ra đi của K. sẽ giản đơn biết bao. Nếu tất cả chỉ là sự lừa dối. Đó phải chăng là lỗi của mình? Mình trẻ con ư? Hay mình đã vô cùng nông nổi? Và chẳng thể là chỗ dựa? Nên khổ đau K. chịu đựng một mình? K. trả lời đi. Sao K. cứ vô tình, im lặng? Giờ đây, mình chỉ thấy rã rời. Mình chỉ muốn ngủ vùi. Mà tâm trí cứ trở mình nằng nặng. Mỗi giờ. Mỗi phút. Mỗi giây. K. chính là quá khứ? Tương lai? Hay mọi thứ về K. vẫn chính là hiện tại?” (Thư muộn 24).

Khi đã mất K. tôi trở nên lạc lõng, không còn là chính mình, mệt mỏi vùng vẫy muốn thoát ra khỏi cuộc đời đó, khỏi trạng thái đó, nhưng có thể K. không còn là tình yêu mà là máu thịt, và sống động như bản thể, K. là giấc mơ suốt đời tôi đeo đuổi, đến tận cùng “mình” có thể đạt được?

Nhiều năm sau, ngay cả khi được D. báo tin K. đã ra đi vĩnh viễn, bao bận rộn và hành trình cuộc đời vẫn miên viễn mở ra nhưng với “mình” K. vẫn ở đó, thân thuộc, bình yên. Những người bạn như Q., N. và ngay cả Jun, được biết đến như người gắn bó tình yêu với “mình” để đến “những miền đất mới, những chân trời bát ngát chân mây…” (Hành trình) đã hơn một lần hỏi “mình” về K.: “Tôi còn nhớ K. không?” và “tôi” đã có Câu trả lời thành thật với lòng mình, “Làm sao có thể quên, bởi chính ta vẫn cố tình không nhớ. Chúng ta rồi sẽ tìm được câu trả lời, vào ngày đẹp trời nào đó. Còn lúc này, tôi muốn được lặng yên” (Câu trả lời). Có lẽ đây cũng là câu hỏi lớn nhất mà tôi phải đối diện, có dám đối diện thì mới tìm thấy bình yên thật sự!

Vẻ “trong suốt” hấp dẫn bạn đọc nhất ở Phú Thọ là giọng điệu. Nhà văn đã thiết lập vị thế và tâm thế ngay khi họ lựa chọn cách xưng hô, cách thể hiện. Chủ thể trữ tình trong Nỗi buồn trong suốt hầu hết xưng là “mình” (618 lần), và thỉnh thoảng xưng “tôi” (269 lần). Cách tự xưng “mình” là một chiến lược tự sự, khác với kiểu xưng “tôi” rất phổ biến trong tản văn Việt Nam đương đại. “Mình” khác “tôi” không chỉ ở giọng thủ thỉ, ở sự chủ động phơi bày thế giới nội tâm, ở mỹ cảm của sự dịu dàng, trong trẻo mà, hơn hết, “mình” còn có năng lực cộng thông, kết nối với tinh thần của người đọc. Những nỗi niềm rất riêng tư của lối diễn ngôn độc thoại, tự kể, tự chất vấn, tự giải bày của chủ thể trữ tình thông qua cách xưng “mình” như một cuộc trò chuyện thân thuộc. Người đọc hòa vào với câu chuyện được kể và như chìm đắm vào trong thế giới ấy như thể là nội tâm của chính mình. Chính cách tự sự giàu tính liên tưởng, tăng khả năng lan tỏa và giảm thiểu khoảng cách trần thuật đã đặt chủ thể trần thuật, câu chuyện được kể và người tiếp nhận trong thế tương giao, dòng ý thức vẫy gọi nhau theo kiểu “đi tìm thời gian đã mất”.  

Bên cạnh việc lựa chọn ngôi kể, giọng kể và những điều được kể mới thực sự giúp khơi nguồn, nảy nụ những mỹ cảm của sự thấu cảm và tinh tế nơi người đọc. Dù là viết về tình bạn hay tình yêu, tình thân hay tình sơ, dù ngọt ngào êm ái hay đau đớn đắng cay, qua ngòi bút giàu cảm xúc của nhà văn trẻ đều toát lên sự ấm áp của tình người đáng tin cậy. Dẫu viết về nỗi đau chất chứa nỗi đau về “người đàn ông” làm khổ đời “mẹ tôi” cũng chỉ khắc khoải trong câu hỏi bất lực: “Ngồi lẳng lặng giữa niềm vô vọng. Mình muốn hỏi tại sao? Sao chẳng thể ra đi? Sao phải tốt với người đàn ông ấy? Người đàn ông chỉ có lỗi lầm. Chỉ gieo thêm nước mắt. Chẳng dám nhìn vào sự thật. Người sống như đã chết cả đời. Sao mẹ chẳng nghỉ ngơi? Sao phải chịu đựng nhiều đến thế?” (Thư muộn 19). Hay những mất mát trong tình yêu “tôi” cũng chỉ có thể để nó gặm nhấm trong suốt những đêm dài, trong sự trằn trọc, mệt nhoài, hỗn độn, rồi tự chìm vào đêm tối: “Mình trôi ngược về miền ký ức. Bằng tất cả sức lực còn lại. Chờ đợi giấc mơ. Để thoát ly thực tại. Mình muốn giải phóng mọi ẩn ức. Mình chẳng thể chết. Mình sẽ vượt qua nỗi sợ. Giữ lại K. nơi sự sống này. Chẳng cần biết vì sao. Mình phải sống. K. có hiểu không? Chưa bao giờ đánh mất K., dù lắm lúc, mình lạc trong ý nghĩ” (Thư muộn 13).

Khi đọc tập tản văn, tôi đã cố gắng kết nối những kí hiệu để tạo lập mạng lưới đời sống của nhân vật, nhưng làm sao có thể vá víu những mảnh vỡ kí ức? Một người sống theo tiếng gọi của trái tim nhưng trái tim ấy đã quá nhiều vết xước, quá mệt mỏi, “mình”/“tôi” xem K. là chiếc la bàn định vị cuộc đời, nhưng K. mãi là điều gì đó xa xôi, mơ hồ không rõ cứa cắt tâm hồn vì những mộng ước tươi đẹp không còn. Những đợi chờ, bồn chồn, nghi ngại qua đi, K. lại trở về trong suốt: “K. là một giấc mơ” (Thư muộn 23).

Nỗi buồn trong suốt toát lên vẻ đẹp thánh thiện của tâm hồn, của cảm xúc. Trước hết, nó nằm ở lối tự sự không hẳn là giãi bày, không phải là phân trần hay biện hộ, đơn giản chỉ là ghi lại như một thói quen, hay như bản thân câu chữ ấy đã hiện lên trong trí não. Đó có thể là nỗi buồn lan tỏa từ cảnh vật, chạm vào da thịt, đọng vào khóe mắt, rồi từ đôi mắt ấy lại ôm trùm vạn vật; một nỗi buồn dịu, buồn mà không sầu. Hay nỗi nhớ miên man như dòng suối nhỏ miệt mài: nỗi nhớ mẹ, nhớ tuổi thơ, nhớ K., nhớ Jun và bao nhiêu điều khác, mỗi thứ nhắc nhở theo kiểu riêng. Một cơn mưa cũng có thể làm ướt những điều xưa cũ, đánh thức những mộng đẹp không thành, một khung ảnh, một góc phố… cũng gợi dậy bao nhiêu điều, lắm lúc cảm tưởng như kí ức trong “tôi” là vô tận, tự động chảy tràn lên trang giấy. Đặc biệt nỗi nhớ dù cho lặp đi lặp lại bao nhiêu lần (nhớ K.) cũng vẫn luôn tươi nguyên sống động, bởi mỗi thời khắc, mỗi không gian nỗi nhớ ấy lại có khuôn mặt, hình hài riêng, rồi tự thân chuyển hóa thành khí thở, mây trời mà “tôi” lắm lúc đã không còn ý thức. Vì chẳng bao giờ toan tính, đặc biệt là trong tình yêu, nên với “tôi”, “đứng trước tình yêu thì kinh nghiệm trở nên vô nghĩa”, nhưng có lẽ, không chỉ trong tình yêu, mọi cảm xúc trong tập tản văn luôn tươi mới tinh nguyên, đầy màu sắc và hình khối. “Mình”/“Tôi” luôn tâm niệm “yêu thương, gắn kết là đích đến của muôn đời” (Mùa hư ảo) nhưng cách yêu thương của “mình”/“tôi” cũng khác người chỉ lặng lẽ nhớ nhung, lặng lẽ đợi chờ, lặng lẽ truy vấn, lặng lẽ mệt mỏi và lặng lẽ vượt qua…Và nếu có niềm vui thanh nhẹ dịu dàng cũng len lén được nhen lên từ sự lặng lẽ ấy.

Khi xã hội ngoài kia luôn vẫy gọi và kiến tạo nên những mẫu người năng động, cuốn theo nhịp sống hối hả, thì Nỗi buồn trong suốt lại khuyến khích một lối sống năng tĩnh, phô ra sức hấp dẫn, vẻ đẹp của sự lặng yên. Đó là lặng yên của không gian cảnh vật, và cũng là sự lặng yên của nội tâm để lắng nghe chính mình, để những hồi ức có cơ hội trở mình, để từng mảnh vụn kí ức lại sống dậy trong tâm trí: “Có những ngày nắng tràn cả vào cơn mơ giấc ngủ. Những bóng nắng sáng lòa, từng giọt mông lung (...). Những giọt nắng rơi về giữa tâm tư bao hình ảnh sáng lòa. Nhưng tất cả lung linh, vô định. Những bóng người đã vĩnh viễn xa ta” (Miền nắng). Sự lặng yên ấy không mang màu sắc của cô lập hay từ khước thế giới, mà là một lựa chọn mỹ học: chậm lại để cảm nhận sâu hơn, tinh tế hơn. Dưới ngòi bút của Nguyễn Đức Phú Thọ, sự lặng yên trở thành một không gian tiếp nhận cảm xúc, là bầu khí quyển bao trùm lên toàn bộ thế giới nghệ thuật, nơi từng giọt mưa, từng cái nhìn, từng nhịp thở đều trở thành chất liệu cho dòng tự sự thấm đẫm tình người.

Chính trong sự lặng yên ấy, các tầng sâu của tâm trí được đánh thức, các cung bậc cảm xúc tinh vi nhất được chưng cất, hiện hình. Càng lặng yên, nhân vật “mình”/“tôi” càng có khả năng lắng nghe âm vang của những điều chưa kịp nói, những mối quan hệ chưa kịp hóa giải, những khúc mắc của tình yêu, tình thân còn day dứt. Càng lặng yên, tác phẩm càng đánh thức ở người đọc một tâm thế đồng cảm, chậm rãi bước vào thế giới của hồi ức, của kí ức bị vỡ vụn nhưng vẫn lung linh ánh sáng của niềm thương và nỗi nhớ. Tài năng của Phú Thọ là gọi ra được tên của những nỗi niềm cảm xúc bằng tất cả sự chính xác và tinh tế, nó tràn ra một cách dễ dàng, có lẽ, đằng sau sự dễ dàng ấy là một quá trình rèn luyện công phu. K. Paustovsky từng nói “truyện hay đến một mức nào đó thì thành thơ”, tản văn của Phú Thọ có lẽ đã chạm đến cái ngưỡng của sự chuyển động ấy, với ngôn ngữ giàu sức gợi, giàu hình ảnh, tràn đầy màu sắc và hình khối được thoát thai từ lối tư duy của một nhà thơ, đó thực sự là những bài thơ văn xuôi mượt mà.

Sự tĩnh lặng sâu xa trong cảm thức của tác giả dù cho kỷ niệm có vài vết xước, dù cho tuổi thơ sớm mất mát tình yêu, dù cho thời hoa mộng trải qua nhiều chia rẽ thì ngòi bút vẫn ngọt ngào tí tách dòng chảy của cuộc sống, dù cho cuộc sống ấy “có muộn phiền, có những giọt nước mắt hòa tan vào mưa, trong suốt” (Mưa). Sự yên lặng, tịch liêu là không gian chủ đạo, song đó không phải là sự tịch liêu chìm vào hư vô, thoát khỏi bản ngã để tiến tới vô ngã như cảm thức “sabi” trong thơ haiku mà sự tĩnh lặng như là nếp nghĩ, nếp sống rất đời của một tâm hồn rất trẻ đầy khao khát và tự vấn. Tự sự trong suốt ở đây, vì thế, cũng là một hành vi đạo đức - viết là để giữ lại cái đẹp của đời sống, để sống chậm lại, để con người không lạc mất chính mình giữa dòng đời vội vã.

Nỗi buồn trong suốt không chỉ là một tập tản văn ghi lại những hồi ức, cảm xúc, ký ức cá nhân mà còn là một hành trình nghệ thuật của cái tôi đang kiếm tìm bản thể giữa những đổ vỡ và chênh vênh của tuổi trẻ. Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt mà Nguyễn Đức Phú Thọ kiến tạo chính là ở sự tinh tế, trong sáng của cảm xúc, ở giọng kể trầm lắng, giàu chất thơ và giàu tính đối thoại liên tầng giữa ký ức và hiện tại, giữa nhà văn và bạn đọc. Những phiến đoạn, những bức thư muộn như những ngấn tích tâm hồn của người kể chuyện, đồng thời, cũng là khối pha lê trong suốt để người đọc chiêm nghiệm.

Ở cột mốc thứ hai trong hành trình sáng tạo, Nguyễn Đức Phú Thọ không chỉ khẳng định phong cách trữ tình, thiên về nội tâm, giàu mỹ cảm, tinh tế trong cảm xúc và ngôn ngữ trong thơ ca, mà còn nỗ lực mở ra hướng đi mới với tản văn, nơi anh thử nghiệm một kiểu tự sự trong suốt, mang tính đối thoại nội tâm mạnh mẽ. Có thể nói, từ Nỗi buồn trong suốt, cá tính sáng tạo của anh được định hình. Đó là mỹ học của sự tinh tế, giản dị và trong trẻo. Con đường phía trước còn dài, mong rằng tinh thần không ngừng tự vấn, không ngừng thử thách bản thân sẽ tiếp tục là động lực thôi thúc nhà văn trẻ khám phá những miền khác của nghệ thuật và con người./.

N.T.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm