TIN TỨC

Nếp nhà xưa cũ trong Về nơi nguồn cội của nhà văn Đới Xuân Việt

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-05-24 09:22:23
mail facebook google pos stwis
926 lượt xem

TRƯƠNG NAM HƯƠNG

Cuốn sách "Về nơi nguồn cội" kể về dòng họ nội, họ ngoại của nhà văn Đới Xuân Việt. Tác phẩm phản ánh gần như bức tranh toàn cảnh của gia tộc tác giả những năm đầu thế kỷ trước cho đến khi đất nước độc lập, giang sơn thu về một mối, qua đó ghi nhận những đóng góp của các vị đức cao vọng trọng trong dòng tộc cho xã hội và cho dòng họ.
 


Nhà văn, đạo diễn Đới Xuân Việt.

Tác phẩm còn nhắc nhở chúng ta công lao của các bậc tiền nhân trong việc khai sơn phá thạch, đã xây dựng và để lại cho chúng ta giang sơn gấm vóc như ngày nay.

Tôi đặc biệt ấn tượng với những hồi ức của tác giả về những bậc tiên tổ trong dòng họ. Ông nội tác giả, một thầy đồ Nho hay chữ, một lang y bốc thuốc chữa bệnh cứu người có tiếng ở vùng Quảng Xương - Thanh Hóa. Cụ có lòng yêu thương con cháu đặc biệt. "Năm nào ông cũng nấu cao ban long bồi dưỡng cho người đau yếu. Sáng ra, ông thường cho người nấu một nồi cháo với củ hoàng tinh rồi cho cao ban long đã thái hạt lựu vào bát cháo cho các cháu ăn trước khi đi học". Cụ dạy bảo con cháu rất cẩn thận, tỉ mỉ từ nếp ăn, nếp ở đến công việc nhà nông, giáo dục con cháu sống có đức độ, sống tốt, sống có trên, có dưới. Đặc biệt, cụ luôn bảo ban con cháu phải biết giữ gìn của cải, sống tiết kiệm, tránh xa cờ bạc, rượu chè bê tha. Cụ luôn ý thức về dòng họ, chăm lo các điều kiện cho con cháu làm ăn, lập nghiệp, giao trách nhiệm cho người đi trước giúp đỡ người đi sau làm cho dòng họ ngày càng phương trưởng. Cụ như cây đại thụ xum xuê chở che cho con cháu.

Cùng với ông nội, bà nội của tác giả cũng để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Cụ bà là người phụ nữ Việt Nam điển hình cần cù, chăm chỉ, lo toan việc nhà và thương yêu con cháu. Cả một đời lao động vất vả, hầu như ngày nào cũng có mặt ở vườn trước, vườn sau, trồng đủ loại rau mùa nào thức ấy, tự cung cấp rau quả cho bữa ăn gia đình. Cả đời bà làm việc lam lũ, đến già lưng cụ còng xuống nhưng không lúc nào rời mắt khỏi con cháu. "Nhà tôi ở phía trước nhà ông bà. Bà tôi đã ngoài bảy mươi tuổi, mỗi lần sang nhà tôi đều phải chống gậy. Ấy vậy mà ngày nào bà cũng sang thăm một, hai lần. Lúc thì mang cho rổ rau, rổ khoai lang, lúc thì dăm bơ lạc, bơ vừng. Đến bây giờ tôi vẫn nhớ như in hình ảnh bà lưng còng, mặc váy đen, áo nâu sồng, da nhăn nheo chống gậy lững thững sang nhà tôi mà thương bà vô hạn".

Khi nhìn sang bên họ ngoại của tác giả, ta được chiêm ngưỡng một dòng họ trâm anh thế phiệt. Là hậu duệ của vị vua có nhiều con nhất Việt Nam - Vua Minh Mạng, ông ngoại của tác giả, cụ Công Tôn Ưng Dinh là tấm gương sáng về rèn luyện, học tập, phấn đấu tu dưỡng đạt được các kết quả đáng mơ ước trên con đường công danh sự nghiệp. Là một thượng thư, tổng đốc tỉnh Thanh Hóa, một tỉnh có diện tích lớn vào bậc nhất Việt Nam, ngoài việc làm tròn bổn phận của một quan đầu tỉnh, cụ còn có công khai khẩn đất hoang, lập làng, lập ấp, xây dựng hệ thống cống dẫn thủy nhập điền góp phần biến một vùng đất hoang hóa, sình lầy rộng lớn thành đồng ruộng.

Là một vị quan to nhưng cụ không nề hà việc nhà nông chân lấm tay bùn. Cụ vẫn xắn quần đi cày bừa, nhổ mạ, làm quần quật ngoài đồng không kể nắng mưa, lao động cần cù chăm chỉ như một nông dân thực thụ. Ngoài bảy mươi tuổi, cụ vẫn chống ba-toong ra đồng kiểm tra lúa má, nước nôi. Cụ có một tình yêu đặc biệt đối với đất đai và cây lúa.


Bìa sách của nhà văn Đới Xuân Việt.

Cụ ngoại của nhà văn cũng sống rất tiết kiệm, không xa hoa lãng phí. Ra ngoài chỉ đội khăn xếp, áo the thân dài. Đi tàu hỏa chỉ lựa hạng 3. Bữa cơm thường nhật đạm bạc với canh cá kình, cá bống kho khô… Cụ cũng rất quan tâm đến việc giáo dục con cái, rất trân trọng, khuyến khích từng thành quả học vấn nhỏ nhoi của con cháu… Các bậc tiên tổ trong dòng họ của tác giả đều có lối sống giản dị, tiết kiệm, yêu thương con cháu hết mực và chăm lo đến sự nghiệp của con cháu. Đó chính là cái gốc đạo đức của các dòng họ Việt Nam, góp phần vào việc ổn định và phát triển xã hội từ đời này qua đời khác.

Cuốn sách cũng đề cập những vấn đề nhạy cảm, thường rất khó truyền tải suôn sẻ. Song, với giọng văn chân thật và trân trọng, những vấn đề gai góc bỗng trở nên đơn giản, dễ chấp nhận. Trong truyện, có những đoạn đời, phần đời gắn với những sự kiện lớn của đất nước, ví dụ cách mạng ruộng đất ở nông thôn miền Bắc những năm năm mươi của thế kỷ trước, tác giả đã kể cho ta biết những câu chuyện đau lòng, cười ra nước mắt nhưng không đi sâu vào nỗi đau quá khứ mà chủ yếu phản ánh những con người, những số phận chịu nhiều thiệt thòi, mất mát đã đứng dậy ra sao, đã phấn đấu ra sao cho một cuộc sống bình yên và tốt đẹp hơn. Những đau khổ, đắng cay của cuộc đời đã không đẩy họ đến những hành động tiêu cực. Họ vẫn phấn đấu hướng đến những điều tốt đẹp, tiếp tục có những đóng góp tích cực cho xã hội, cho đất nước. Trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, con cháu của nhiều địa chủ trong dòng họ của tác giả đã đi bộ đội chiến đấu ở các chiến trường và đã hoàn thành nhiệm vụ của người lính. Tác giả luôn có xu hướng nghiêng về tính tích cực của các sự kiện. Cuốn sách đề cao truyền thống quý báu của dòng họ, niềm tự hào cho con cháu noi theo. Nó cũng là nguồn động lực tiếp sức cho các thế hệ sau phấn đấu và vươn lên.

Truyện còn kể về một người bà con của tác giả, một ông Cai Tổng trong chính quyền của thực dân Pháp, một đại địa chủ lại là người giác ngộ tham gia cách mạng ngay từ khi Đảng mới thành lập. Ngôi nhà của ông là nơi thành lập và hoạt động của chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên của vùng phía Nam huyện Quảng Xương, Thanh Hóa, đã được công nhận là di tích cách mạng cấp tỉnh.

Nhiều tấm gương sáng của các bậc tiền bối trong dòng họ của tác giả mang tính khái quát, đại diện cho những đức tính tốt của các bậc tiên tổ trong các dòng họ ở Việt Nam. Ví dụ, truyền thống hiếu học, tính cần cù lao động, sống tiết kiệm, tích cóp tiền của xây dựng cơ nghiệp để lại cho con cháu. Hoặc lòng yêu nước, thương nòi thì ở dòng họ nào cũng có. Và ta có cảm giác, dường như số phận của dòng họ gắn liền với sự thăng trầm của đất nước.

Hướng về cội nguồn là tâm tưởng của người Việt từ bao đời nay. Điều này được thể hiện qua các ngày giỗ chạp. Giỗ ông bà, giỗ cha mẹ. Giỗ quốc Tổ Hùng Vương…  Cũng từ đó, các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được gìn giữ và phát huy từ đời này sang đời khác. Đó là truyền thống rất quý báu của dân tộc ta.

"Về nơi nguồn cội" là một thiên truyện ký, một truyện dài về dòng họ đã trải qua hơn một thế kỷ từ khi đất nước còn chìm đắm trong đêm dài nô lệ cho đến khi hoàn toàn được độc lập. Bao nhiêu vui buồn, bao nhiêu khổ hạnh và sung sướng tưới đẫm số phận các nhân vật, đem lại cho chúng ta những cảm xúc nhiều chiều. Tác phẩm, với các chi tiết, sự kiện phong phú, ngồn ngộn trải ra trước mắt người đọc, khiến cuốn sách, dù là ở thể hồi ký, nhưng đọc rất hấp dẫn, không khô khan, đơn điệu. Đã 70 năm trôi qua, nhưng nhiều sự kiện, sự việc vẫn rõ mồn một, hiển hiện trên từng trang sách. Hy vọng cuốn sách sẽ đem đến cho bạn đọc niềm tự hào về dòng họ, về ông cha với một tình yêu và lòng kính trọng dành cho các bậc tiên tổ.

Tháng 5/2024

Một vài hình ảnh nhà văn Đới Xuân Việt và bạn bè tại TP. Hồ Chí Minh
 
Từ trái: Đới Xuân Việt, Trần Mạnh Hảo, Nguyên Hùng và Trương Nam Hương
 

 
Từ trái: Trương Nam Hương, Lê Minh Quốc, Bùi Quang Lâm, Đới Xuân Việt, Nguyên Hùng.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm