- Văn học dịch
- Chùm thơ Oh Se-young
Chùm thơ Oh Se-young
Nhà thơ người Hàn Quốc, sinh năm 1942, tốt nghiệp cử nhân khoa Vật lý và sau đó là tiến sĩ văn học của Đại học Quốc gia Seoul. Ông chính thức bắt đầu sự nghiệp thơ ca vào năm 1965 với bài thơ ‘새벽’ (tạm dịch: Bình minh) được đăng tải trên tạp chí “Văn học hiện đại”. Ông là giáo sư Khoa Văn của Đại học Quốc gia Seoul cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2007 và hiện tại giữ chức giáo sư danh dự tại Đại học Quốc gia Seoul. Ngoài ra ông còn là giáo sư thỉnh giảng của Đại học California, Mỹ và Đại học Charles, Công Hoà Séc. Ông cũng giữ chức vụ Chủ tịch Hội nhà thơ Hàn Quốc. Ông nổi tiếng với các tập thơ “시간의 뗏목” (tạm dịch: Chiếc bè thời gian), “바람의 그림자” (tạm dịch: Bóng dáng của gió), “가장 어두운 날 저녁에” (tạm dịch: Vào ngày tăm tối nhất), “천년의 잠” (tạm dịch: Giấc ngủ ngàn năm),… Năm 2008, ông được nhận Huân chương Văn hoá hạng Nhì, bên cạnh đó là các giải thưởng Hiệp hội Nhà thơ Hàn Quốc, Giải thưởng Văn học Nogwon, Giải thưởng Văn học Kim Daljin, Giải thưởng Văn học Kim Satkat,…
Văn chương TPHCM xin giới thiệu chùm thơ của ông qua bản dịch của nhóm Workshop Biên dịch Văn học Hàn Quốc 2022, Trường ĐH Văn Lang.
원시(遠視)
-오세영-
멀리 있는 것은
아름답다
무지개나 별이나 벼랑에 피는 꽃이나
멀리 있는 것은
손에 닿을 수 없는 까닭에
아름답다.
사랑하는 사람아,
이별을 서러워 하지 마라.
내 나이의 이별이란
헤어지는 일이 아니라 단지
멀어지는 일일 뿐이다
네가 보낸 마지막 편지를 읽기 위해선
이제
돋보기가 필요한 나이,
늙는다는 것은
사랑하는 사람을 멀리 보낸다는
것이다.
머얼리서 바라볼 줄을
안다는 것이다.
Viễn thị
Dịch giả: Trương Thị Thuý Quỳnh
Những gì ở xa xôi
Thật đẹp đẽ biết mấy
Cầu vồng đến vì sao
Hay hoa nơi vách đá
Những gì ở xa xôi
Vì chẳng thể chạm tới
Nên lại đẹp biết bao.
Này người yêu dấu hỡi,
Đừng buồn vì chia ly.
Ly biệt ở tuổi này
Chẳng phải là chia tay
Chỉ là ta xa cách
Lá thư cuối em gửi
Để đọc được giờ đây
Anh phải cần kính lão
Già đi
Là phải tiễn người mình thương
Rời xa.
Là phải biết cách nhìn người ấy
Từ nơi xa.
먼 후일
-오세영-
먼 항구에 배를 대듯이
나 이제 아무 데서나
쉬어야겠다.
동백꽃 없어도 좋으리.
해당화 없어도 좋으리.
흐린 수평선 너머 아득한 봄 하늘 다시
바라보지 않아도 된다면……
먼 항구에 배를 대듯이
나 이제 아무나와
그리움 풀어야겠다.
갈매기 없어도 좋으리.
동박새 없어도 좋으리.
은빛 가물거리는 파도 너머 지는 노을 다시
바라보지 않아도 된다면……
가까운 포구가 아니라
먼 항구에 배를 대듯이
먼 후일 먼 하늘에 배를 대듯이.
Ngày sau
Dịch giả: Trương Thị Thuý Quỳnh
Tựa chiếc thuyền cập bến cảng xa xôi
Giờ đây tôi chắc phải nghỉ ngơi rồi
Ở chốn nào nơi nao cũng được cả.
Hoa sơn trà dẫu không có vẫn ổn.
Đóa hải đường không có cũng chẳng sao.
Nếu như tôi không cần phải nhìn lại
Trời xuân xưa phía chân trời mịt mờ…
Tựa chiếc thuyền cập bến cảng xa xôi
Nỗi nhớ nhung giờ chắc phải buông rồi
Cùng người nào, với ai cũng được cả.
Sẽ ổn thôi dù chẳng có mòng biển.
Dẫu vành khuyên không có cũng chẳng sao.
Nếu như tôi không cần phải nhìn lại
Ráng chiều dần tắt sau ngọn sóng bạc…
Chẳng phải một bến cảng gần nào khác
Tôi như chiếc thuyền cập bến cảng xa
Tựa thuyền cập bến trời xa mai này.
푸르른 하늘을 위하여
-오세영-
-----피가 잘 돌아…. 아무 병도 없으면 가시내야 슬픈 일도 슬픈 일도 있어야겠다. <서정주>
사랑아,
너는 항상 행복해서만은 안 된다.
마른 가지 끝에 하늬바람 불어
푸르게 열린 하늘,
그 하늘을 보기 위해선
조금은 슬픈 일도 있어야 한다.
굽이쳐 흐르는 강,
분분히 지는 낙화,
먼 산등성에 외로 서 문득 뒤돌아보는
늙은 사슴의 맑은 눈.
달더냐.
수밀도 고운 살 속 눈먼 한 마리 벌레처럼
붉은 입술을 하고서 사랑아,
아른아른 피던 봄 안개는,
여름내 쩡쩡 울던 먹구름 속의 천둥은
이미 지평선 너머 사라졌는데
하늬바람 불어
푸르게 열리는 그 하늘을 위해선 사랑아,
조금은 슬픈 일도 있어야 한다.
Vì bầu trời xanh
Dịch giả: Trương Thị Thuý Quỳnh
----- Nếu máu lưu thông tốt…. Và không có bệnh tật gì cả thì cô gái à, cũng phải có lúc buồn, có lúc không vui chứ.
Tình yêu ơi,
Đừng chỉ mãi cảm thấy hạnh phúc.
Gió Tây thổi qua ngọn cành khô
Bầu trời đã mở ra xanh ngát,
Để nhìn thấy được bầu trời ấy
Cũng cần phải có chút chuyện buồn.
Dòng sông chảy lượn lờ uốn khúc,
Hoa tàn rơi xuống bay tứ tung,
Sườn núi xa, hươu già đơn độc
Chợt ngoảnh lại, đôi mắt trong veo.
Ngọt lắm chăng?
Như con bọ mờ mắt
Trong thớ thịt mềm của quả đào mọng nước.
Tình yêu hỡi,
Khi đôi môi em đỏ thắm
Sương mù trong xuân mờ ảo dập dềnh,
Sấm trong mây đen rền vang suốt hạ
Đã biến mất phía bên kia chân trời
Nhưng gió Tây vẫn cứ thổi
Tình yêu à,
Vì bầu trời trong xanh đang mở ra
Em cũng cần phải có chút chuyện buồn.
바람의 노래
-오세영-
바람 소리였던가.
돌아보면
길섶의 동자(童子) 꽃 하나,
물소리였던가.
돌아보면
여울가 조약돌 하나,
들리는 건 분명 네 목소린데
돌아보면 너는 어디에도 없고
아무 데도 없는 네가 또 아무 데나 있는
가을 산 해 질녘은
울고 싶어라.
내 귀에 짚이는 건 네 목소린데
돌아보면 세상은
갈바람 소리.
갈바람에 흩날리는
나뭇잎 소리.
Bài ca của gió
Dịch giả: Lê Thị Trang Nhung
Phải chăng là thanh âm của gió.
Tôi ngoảnh nhìn
Một bông hoa đồng tử bên đường,
Ấy là tiếng nước chảy chăng.
Tôi ngoảnh nhìn
Một hòn cuội bên bờ suối,
Nghe thấy giọng nói em rõ ràng là thế,
Nhưng rồi ngoảnh lại chẳng thấy em đâu,
Em hiện diện ở bất cứ nơi đâu, cũng chẳng xuất hiện ở một chốn nào
Khi chiều tà trên ngọn núi mùa thu
Thật muốn òa lên khóc.
Nghe thấy giọng nói em rõ ràng là thế,
Nhưng rồi ngoảnh lại thế gian này
Tiếng gió thu.
Trong cơn gió thu phảng phất
Xào xạc lá cây.
라일락 그늘에 앉아
-오세영-
맑은 날,
네 편지를 들면
아프도록 눈이 부시고
흐린 날,
네 편지를 들면
서럽도록 눈이 어둡다
아무래도 보이질 않는구나.
네가 보낸 편지의 마지막
한 줄,
무슨 말을 썼을까
오늘은
햇빛이 푸르른 날,
라일락 그늘에 앉아
네 편지를 읽는다.
흐린 시야엔 바람이 불고
꽃잎은 분분히 흩날리는데
무슨 말을 썼을까.
날리는 꽃잎에 가려
끝내
읽지 못한 마지막 그
한 줄.
Ngồi dưới bóng cây tử đinh hương
Dịch giả: Nguyễn Hữu Thọ
Ngày xanh trong,
chỉ cần cầm lá thư em
mắt anh chói đến đau cả mắt.
Ngày âm u,
chỉ cần cầm lá thư em
mắt anh tối sầm sầu não
Dẫu sao thì anh vẫn không thể thấy.
Dòng cuối
thư em,
em đã viết những gì.
Hôm nay
ngày nắng trong xanh,
anh ngồi dưới bóng cây tử đinh hương
đọc lá thư em.
Cơn gió thổi nhòe đi ánh mắt
cánh hoa bay lất phất tứ phương
em đã viết gì, hỡi người thương.
Cánh hoa bay nhẹ nhàng che khuất
Đến cuối cùng
anh vẫn không thể đọc
dòng cuối thư em.
천년의 잠
-오세영-
강변의 저 수 많은 돌들 중에서
당신이 집어 지금
손 안에 든 돌.
어떤 돌은
화암사(禾巖寺) 중창 미타전(彌陀殿)의 셋째 기둥 주춧돌로
놓이기를 바라고,
어떤 돌은
어느 시인의 서재 한 귀퉁이에 나붓이 앉아
시가 씌어지지 않는 밤, 그의 빈 원고지 칸을 지키기를 바라고,
또 어떤 돌은
어느 순결한 죽음 앞에서 만대(萬代)의 의(義)를 그의 붉은
가슴에 새기기를 바라지만
아, 나는 다만 당신이
물 수재비 뜨듯 또 다시 강가에 나를
팽개치지 않기만을…..
아무도 깨워주지 않는 천년의 잠은
죽음보다 더 잔인할지니
흙 위에 엎드려 잠들기 보다는
급류 속의 일개
징검다리가 되리라.
그러므로 님이여, 장난 삼아 던질 양이면 차라리
거친 물살에 던지시라.
그리하여 먼 후일 당신이 다시 찾아오시는 날,
나는 즐겨 내 몸을 당신 앞에 바치리니
당신은 주저 말고 내 등을
밟고 건너시기를.
Giấc ngủ ngàn năm
Dịch giả: Nguyễn Ngọc Mai Thi
Trong vô vàn hòn đá bên bờ sông
Hòn đá em nhặt lên
Và đang cầm trong tay.
Có hòn đá nào đó
Mong được đặt xuống
Làm đá đỡ cột trụ thứ ba của Điện Di Đà ở Hòa Nham Tự,
Có hòn đá nào đó
Mong được ngồi yên trong góc thư phòng của một thi nhân nọ
Những đêm người không làm thơ, giữ gìn ô kẻ trên trang giấy trắng cho người,
Lại có hòn đá nào đó
Mong được đứng trước cái chết trong sạch nọ
Khắc ghi nghĩa muôn đời vào sâu trong lòng ngực rực đỏ kia
Nhưng ôi, ta chỉ mong em
Đừng vứt bỏ ta bên bờ sông thêm một lần nữa
Như ném đá trên mặt nước.....
Giấc ngủ ngàn năm không ai đánh thức
Còn tàn nhẫn hơn cả cái chết
Thay vì nằm sấp trên đất mà ngủ
Ta sẽ trở thành chiếc cầu đá tầm thường
Giữa dòng nước chảy xiết.
Vậy nên em hỡi, nếu chỉ ném cho vui thì thà rằng
Hãy ném ta xuống dòng nước chảy cuồn cuộn.
Để rồi một ngày xa xôi, ngày em lại tìm về,
Ta sẵn lòng hiến dâng tấm thân này trước em
Xin em chớ ngại ngần.
나무처럼
-오세영-
나무가 나무끼리 어울려 살듯
우리도 그렇게
살 일이다.
가지와 가지가 손목을 잡고
긴 추위를 견디어 내듯
나무가 맑은 하늘을 우러러 살듯
우리도 그렇게
살 일이다.
잎과 잎들이 가슴을 열고
고운 햇살을 받아 안듯
나무가 비바람속에서 크듯
우리도 그렇게
클 일이다.
대지에 깊숙이 내린 뿌리로
사나운 대풍 앞에서 당당히 서듯
나무가 스스로 철을 분별한 줄을 알 듯
우리도 그렇게
살 일이다
꽃과 잎이 피고 질 때를
그 스스로 물러설 때를 알 듯
Tựa như cây cối
Dịch giả: Trương Thị Thuý Quỳnh
Như cây cối sống hòa hợp với nhau
Chúng ta cũng vậy
Cũng sẽ sống như thế.
Tựa cành nối cành nắm lấy bàn tay
Cùng nhau chống chọi cái lạnh dai dẳng
Như cây cối luôn sống ngước nhìn bầu trời trong xanh
Chúng ta cũng vậy
Cũng sẽ sống như thế.
Tựa lá với lá mở rộng lòng mình
Đón lấy ánh mặt trời dịu dàng ấm áp
Như cây cối lớn lên từ mưa gió
Chúng ta cũng vậy
Cũng sẽ lớn lên như thế.
Tựa bộ rễ cắm thật sâu xuống đất
Đứng hiên ngang trước bão táp phong ba
Như cây cối tự biết phân biệt các mùa
Chúng ta cũng vậy
Cũng sẽ sống như thế.
Biết lúc nào hoa nở lá tàn
Tự mình hiểu khi nào nên lùi bước về sau
어머니
-오세영-
나의 일곱 살 적 어머니는
하얀 목련꽃이셨다.
눈부신 봄 한낮 적막하게
빈 집을 지키는,
나의 열네 살 적 어머니는
연분홍 봉선화꽃이셨다.
저무는 여름 하오 울 밑에서
눈물을 적시는,
나의 스물한 살 적 어머니는
노오란 국화꽃이셨다.
어두운 가을 저녁 홀로
등불을 켜 드는,
그녀의 육신을 묻고 돌아선
나의 스물아홉 살,
어머니는 이제 별이고 바람이셨다.
내 이마에 잔잔히 흐르는
흰 구름이셨다.
Mẹ
Dịch giả: Trương Hoài Thư
Bảy tuổi của tôi, mẹ là
Bông hoa mộc liên trắng
Giữa trưa xuân rực nắng
Mẹ trông giữ ngôi nhà yên ắng
Mười bốn tuổi của tôi, mẹ là
Hoa phụng tiên màu hồng phớt
Nước mắt ướt đẫm dưới ánh hoàng hôn trời hạ
Hai mốt tuổi của tôi, mẹ là
Hoa cúc vàng
Đơn độc thắp sáng ngọn đèn đêm thu tối tăm
Hai mươi chín tuổi của tôi, chôn cất mẹ trở về
Giờ đây mẹ là gió là sao
Là áng mây che chở đời tôi
7월
-오세영-
-샤를르 보들레르에게(*)
바다는 무녀(巫女)
휘말리는 치마폭
바다는 광녀(狂女)
산발(散髮)한 머리칼,
바다는 처녀(處女)
푸르른 이마,
바다는 희녀(戱女)
꿈꾸는 눈,
7월이 오면 바다로 가고 싶어라,
바다에 가서
미친 여인의 설레는 가슴에
안기고 싶어라.
바다는 짐승,
눈에 비친 푸른 그림자.
Tháng bảy
Dịch giả: Nguyễn Đặng Hồng Yến
-Gửi Charles Baudelaire*
Biển như nữ Mu-dang
Cuốn bay vạt váy
Biển như người đàn bà tâm thần
Một đầu tóc rối
Biển như thiếu nữ
Vầng trán xanh
Biển như hý nữ
Đôi mắt ngập tràn ước mơ
Khi tháng bảy đến ta muốn đi biển
Ra biển cả
Ta muốn được ôm
Trong lồng ngực thổn thức của nữ nhân điên loạn
Biển như mãnh thú
Hình bóng xanh ánh lên trong mắt.
(*) Baudelaire, Charles Pierre: Nhà thơ Pháp (thơ tượng trưng)
9월
-오세영-
코스모스는
왜 들길에서만 피는 것일까.
아스팔트가
인간으로 가는 길이라면
들길은 하늘로 가는 길.
코스코스 들길에서는 문득
죽은 누이를 만날 것만 같다.
피는 꽃이 지는 꽃을 만나듯
9월은 그렇게
삶과 죽음이 지나치는 달.
코스코스 꽃잎에서는 항상
하늘 냄새가 난다.
문득 고개를 들면
벌써 엷어지기 시작하는 햇살.
태양은 황도에서 이미 기울었는데
코스모스는 왜
꽃이 지는 계절에 피는 것일까.
사랑이 기다림에 앞서듯
기다림은 성숙에 앞서는 것,
코스모스 피어나듯 9월은
그렇게
하늘이 열리는 달이다.
Tháng chín
Dịch giả: Nguyễn Như Quỳnh
Hoa bướm
Sao chỉ nở rộ trên đường ra đồng?
Đường nhựa
Nếu đó là con đường tới trần gian
Thì đường đồng kia, đường đưa lối đến bầu trời
Trên đường hoa bướm nở
Bất chợt hội ngộ người chị đã khuất
Tựa đóa hoa nở gặp đóa hoa tàn
Tháng chín như thế
Tháng sinh tử cùng song hành
Trên những cánh hoa bướm
Bao giờ cũng ngào ngạt hương trời
Bỗng dưng ngẩng đầu lên
Tia nắng đã dần nhạt màu
Mặt trời chếch bóng trên đường hoàng đạo
Vì sao loài hoa bướm
Lại nở vào mùa hoa rụng?
Như tình yêu đến trước đợi chờ
Như đợi chờ đến trước trưởng thành
Tựa hoa bướm nở
Tháng chín như thế
Tháng mở ra bầu trời