TIN TỨC

Mùa xuân trong ‘Khối tình con’ của Tản Đà

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-02-02 00:08:29
mail facebook google pos stwis
4077 lượt xem

Lê Xuân(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu đã “vô mây khói” gần một thế kỷ rồi. Tiên sinh từ giã cõi đời này khi tròn năm mươi tuổi (1889-1939). Trước đó một năm (1938) ông đã nói vui, tiên đoán về hậu vận của mình:

Ngoài trăm tuổi vắng ta trên trần thế

Xuân nhớ ta chưa dễ biết đâu tìm


Thi sĩ Tản Đà.

Thế mà ông đã vội ra đi, để lại bao Khối tình con I-II-III, Khối tình bản chính, Khối tình bản phụ, Giấc mộng lớn, Giấc mộng con… cho hậu thế. Ông là cái gạch nối giữa thế kỷ XIX và thế kỷ XX, giữa Thơ cũ và Thơ mới, là chàng trai si tình, là nhà Nho tài tử, là nhà thơ ngông một thời. Thơ văn của ông không những bày bán khắp phố phường mà ông còn tưởng tượng đem thơ lên bán chợ Trời, đọc thơ cho Ngọc Hoàng nghe. Có lúc ông than thở với chị Hằng: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế nay em chán nữa rồi (Muốn làm thằng Cuội). Và suốt đời Tản Đà ôm nhiều mộng tưởng, xem khinh chuyện đói nghèo, cho dù Cơm áo không đùa với khách thơ (Xuân Diệu), ông vẫn tự bạch:

Trời sinh ra bác Tản Đà

Quê hương thì có cửa nhà thì không

Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông

Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt ly

Túi thơ đeo khắp ba kỳ

Lạ chi rừng biển, thiếu gì gió trăng

Thú ăn chơi cũng gọi rằng

Mà xem chửa dễ ai bằng thế gian…

Và ông vẫn vui, vẫn cười, vẫn ngông trong tâm thế vong bần lạc đạo của một Nho sĩ: Người ta hơn tớ cái phong lưu/ Tớ cũng hơn ai cái sự nghèo, và ông quan niệm:

Bạc tiền gió thoảng: thơ đầy túi

Danh lợi bèo trôi: rượu nặng vai.

(Tự vịnh)

Thế nhưng có lúc ông phải quay về với thực tại, đối mặt với chuyện áo cơm đến phũ phàng, cười ra nước mắt:

Trời ơi, ơi Tết ơi là Tết

Bác hãy còn hơn, tôi mới chết.

…Trời còn để sống đến trăm năm

Lại mấy mươi bài thơ khóc Tết.

(Khóc Tết)

Thi sĩ đã dành hẳn một tập Tản Đà xuân sắc để gởi hồn mình vào tình Xuân mỗi khi Tết đến. Ông đã viết hàng loạt bài thơ về mùa Xuân như: Gặp xuân, Xuân cảm, Xuân sầu, Nhớ xuân, Khóc xuân, Xuân tứ, Ngày xuân chúc quốc dân, Ngày xuân thơ rượu… Gặp nàng Xuân, ông tự giới thiệu ngay: Trời Nam thằng kiết là tôi, nhưng ông luôn tự hào mình là người rất giàu thơ và rượu, cũng như mùa Xuân không bao giờ mất đi trên thế gian này, thì với ông mùa xuân đồng nghĩa với rượu và thơ:

Còn thơ, còn rượu, còn xuân mãi

Còn mãi xuân, còn rượu với thơ.

(Ngày xuân thơ rượu)

Mùa xuân của đất trời cứ theo quy luật của tạo hoá tới rồi lại đi. Nó hiện hữu trên hoa đào, hoa mai khoe sắc, trên cánh én liệng giữa trời xanh, hay trên má gái chưa chồng. Với Tản Đà là còn rượu, còn thơ trước đã rồi mới còn xuân mãi. Nhưng nếu không còn mùa xuân thì thơ và rượu cũng trở nên vô nghĩa. Thế mới biết sắc xuân trong thơ ông mãnh liệt biết dường nào! Bầu rượu túi thơ là niềm vui thanh cao, nguồn thi hứng của biết bao tao nhân mặc khách ngày trước. Tản Đà tiên sinh cũng không nằm ngoài quy luật ấy:

Công danh sự nghiệp mặc đời

Bên thời be rượu, bên thời bài thơ.

(Tản Đà xuân sắc – 1935)

Ngày xuân ông sẽ say mặc cho trời đất thế nào, bởi vì Đất say, đất cũng lăn quay/ Trời say, mặt cũng đỏ gay ai cười cơ mà. Cảnh đời là gió gió mưa mưa nên ông luôn phải có thơ – rượu để buồn với trăng, để sầu với xuân… Mùa xuân tới, niềm vui tràn ngập trong lòng người và tạo vật, cớ sao ông lại sầu, lại buồn, lại chán đời và lòng thì rối như tơ vò, với một nỗi đau nhân thế vời vợi như vậy? Trong bài Năm hết hữu cảm ông buông một tiếng thở dài đến ngao ngán:

Đời người lo mãi biết bao thôi

Mái tóc xanh xanh trắng hết rồi

Sự nghiệp nghìn thu xa vút mắt

Tài tình một gánh nặng bên vai.

Càng về già ông càng lâm vào cảnh túng quẫn. Nhìn cành mai sương phủ, biết là Tết sắp đến. Nhìn cánh én báo tin xuân, ông lại quên đi thời thế đảo điên để mừng cho thiên hạ. Ông có lời chúc cho xuân, cho con người ai cũng có tư cách/ Trước hết ái quốc, sau hợp quần. Ở đây tư tưởng yêu nước của Tản Đà đã bộc lộ trực tiếp chứ không còn xa xôi, bóng gió như trong bài Thề non nước hay như ở Bức dư đồ rách nữa, và ông đặt niềm tin vào sự đổi mới, mà trước hết là đổi mới sự học: Cái học năm xưa đã cũ rồi/ Học cũ đi mà xuân lại mới, rồi ông tâm tình với nàng xuân:

Gặp ta nay xuân chớ lạ lùng

Tóc có bạc nhưng lòng ta chẳng khác.

(Gặp xuân-1938)

Lộc trời ai mà tham được, tóc kia dù đã bạc đi nhưng lòng vẫn xanh mãi với mùa xuân, đó là điều không phải ai cũng có được:

Núi non trăng cũng chưa già

Đầu ai tóc bạc vẫn là xuân xanh.

Tản Đà – tiên sinh không bao giờ già trước mùa xuân, trước khối tình nước non, và trong ông giấc mộng về non nước chẳng bao giờ phai. Chỉ khi nào:

Bao giờ Trời gọi thì đi

Giang sơn cất gánh ta thì nghỉ ngơi.

Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu là người của trời sinh, nhưng Tài cao phận thấp chí khí uất/ Giang hồ mê chơi quên quê hương. Mùa xuân này nỗi đau của thi nhân đã qua. Các thế hệ con cháu của nhà thơ núi Tản sông Đà không còn phải khóc Tết như tiên sinh năm nào nữa. Ta như thấy ông đang đâu đây ngất ngưởng với be rượu, túi thơ đi thăm lại Mả cũ bên đường khi Tết đến, rồi vụt biến vào chốn Thiên Thai. Ước mơ của ông làm đôi chim nhạn tung trời mà bay để chào đón những mùa xuân bất tận quả là quý lắm thay!

L.X

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm