TIN TỨC

Nguyễn Bính Hồng Cầu tháng ngày nắm buộc chân mây cuối trời

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-19 06:09:01
mail facebook google pos stwis
2025 lượt xem

TRẦN MAI HƯỜNG

“Hạt cỏ lông chông” là tác phẩm thứ 7 của nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu. Lấy tên một loài hoa ở miền gió cát khắc nghiệt vẫn sắt son, mãnh liệt sống làm tên tác phẩm, chị đã gửi gắm bao nhiêu trăn trở cuộc đời vào từng ký tự. Với 36 bài thơ như 36 ga đời không ga xép. Mỗi ga khai mở một gương mặt riêng, rất riêng...

Tháng ngày nắm buộc chân mây cuối trời, trong rất nhiều câu thơ hay của chị, câu này cứ ám ảnh tôi. Chị, một người đàn bà làm thơ viết văn. Không như nhiều nữ nhà văn khác, gánh trên vai sứ mệnh văn chương từ cái tên mà người cha thương yêu, thi sĩ Nguyễn Bính đặt với bao kỳ vọng. Đi tiếp con đường chữ nghĩa, theo gót lãng du của cha, can trường, lặng lẽ, tài hoa và cô độc.

Chạm vào bài đầu tiên, những dòng thơ ám gợi thăm thẳm, đau đáu và đầy trách nhiệm với Tổ quốc. Mượn ta để nói về nhân sinh, tâm sự với mình mà con chữ bời bời thổn thức: Nghiêng ngửa sơn hà/ máu xương hòa nước mắt/ cột mốc biên cương/ chòng chành sóng dữ/ một trăm năm/ một ngàn năm/ vẽ vời ký tự/ văn bản nào/ thoát kiếp vong nô?/ Ta mù khơi giông gió tơi bời/ đối diện biển đêm tứ bề dựng sóng/ con đường nào ta đi bến bờ nào ta đến/ Tổ Quốc trong ta lặng tiếng thở dài...

Khúc ngày xanh như khúc xạ đời, lênh loang ngày xưa, những cột mốc đời chất chứa cả ngạ quỷ thiên đường. Ẩn mình vào phận cỏ lông chông, vẫn là những nỗi đau và buồn phản diện nhau giằng xé nhau, bằng nổi chìm phận sóng, bằng vọng âm của khúc cầm xưa day dứt: Cỏ Giêng Hai vẫn xanh thời con gái/ thuở chúng mình hai đứa bộn bề nhau/ sông bao năm đổi thay dòng chảy/ căn cớ gì ta phủi sạch trầu cau?

Vẫn mênh mang trong mỹ cảm ngôn từ: “Giữa hai bờ mê thức/ ban mai cuồng phong/ hoàng hôn cuộn sóng/ Con tàu tôi lao về phía không không. Phía không không ấy là phía dại khôn lẫn lộn, vô thức và vô minh. Trong bầu khí quyển của cảm xúc, chị đã thành công khi đọc đúng mình: Tôi dại khôn/ nửa người nửa ngợm/ vô thức vô minh/ đảo điên mộng tưởng/ xòe bàn tay níu giữ mây trời...

Trong tầng tầng lớp lớp cô đơn của nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu, sự hợp hôn của hoàng hôn với ban mai để có những vần thơ như dứt máu. Trong dằng dặc đêm không ấy là những nỗi đau huyễn hoặc đến tận cùng và nồng hương thân phận. Những mảnh vỡ của đêm cứ nhấn sâu nhấn sâu vào tim người. Cầm cố nụ cười mà buôn nước mắt, ấy là bản tính của người tài nữ: “Người đi nát những đam mê/ đêm gom hết nhớ ngày lê thê buồn/ Gầy tay níu giữ cánh chuồn/ Trăng Giêng quá lứa chiều buông quá mùa/ Nghiêng trời nắng hạn chờ mưa/ Em như cổ tích khuôn vừa chiêm bao/ Giấc nồng trốn biệt nơi nao/ Đêm giăng lưới nhớ chênh chao sóng ngày/ .../ Đành tôi cầm cố nụ cười/ Mà buôn nước mắt khóc người ngày xưa...”, “Đêm vỡ vụn/ mắt cay xè giằng níu/ Hai đầu đêm giấc nhớ dậy thì/ Miếng trầu tươi nợ nần cau quá lứa/ Treo ngược đời nhau gút thắt cuộc luân thường...”.

Trong bài viết về ông lão mù hành khất, những câu thơ ngắt dòng như những giọt buồn giữa trời đông giá, giữa ấm lạnh tình người. Tiếng sáo chơi vơi, mong manh không cất nổi phận người: Tiếng sáo mưu sinh/ của ông lão mù hành khất/ chết nghẽn giữa tầng không/ lọt thỏm xuống lòng đường/ ông lão ngồi lặng câm/ giữa chiều xuân/ hoàng hôn/ hóa đá.../ chút nhân tình/ buốt giá bàn tay...

Đi quá nửa đời người, trôi trong dòng cảm thức, vũ trụ riêng của chị là thơ, kết tinh từ những cảm xúc dị biệt của người cầm bút. Nỗi buồn đậm đặc và đầy tính triết luận. Gánh cả nỗi đau nhân tình thế thái và nỗi đau mình. Thơ chị sáng tạo và ẩn khuất. Cái ẩn khuất trừu tượng và duy lý: “Ta gom nhặt những khóc cười thiên hạ/ hong nóng mình/ sỏi đá chiều buông...”, “Gót thời gian vô tư nhảy nhót/ ngày đêm/ rượt đuổi nhau/ chơi trò cút bắt/ nhật nguyệt trốn tìm/ trăng sao mê đắm/ ta và người/ từng nhau chồng vợ/ ly rượu giao bôi ngọt đắng một đời/ tựa vào miền xưa để được mình mầm nụ/ khát nhớ ngày xanh ngọn lửa cháy qua mùa...”

Mạch suy tư của một nhà thơ từng trải đã gợi lên bao day dứt, tự vấn về sự hy sinh mất mát. Còn bao phận người không được bù đắp sự hy sinh cùng những đau thương trong kiếp sống: “Vòng thời gian quay ngược mùa tang tóc/ giọt chiều rơi đắng đót cõi hương hoa/ đốm lửa tàn nhang lạnh cong dấu hỏi/ tượng mẹ anh hùng nước mắt chảy về đâu”.

Hướng về cõi tâm linh xa xăm vời vợi, câu thơ là một dấu hỏi xoáy sâu vào tâm khảm người đang sống. Đức tin cần sự thành tâm, sự thành tâm cũng cần được thể hiện bởi những tấm lòng cùng với tri ngộ về cuộc sống, về tất yếu hiển linh trong thế giới đa tầng: Lấp lánh vàng sao/ đính trên đầu mộ chí/ Tổ quốc ghi công/ đền đài chất ngất/ có thật ấm lòng/ hai cõi âm dương?

Chị đã mang những vần thơ từ cõi thực tiệm cận với cõi hư không đầy suy tưởng trọng nghĩa, nặng tình. Sức mạnh của tâm thế thi ca hòa quyện cùng tâm linh đã trao cho chị một tình yêu đầy tỉnh thức, đầy bản lĩnh với cuộc sống đang hiện hữu hàng ngày: “Thánh giá gục đầu/ tử nạn/ Phật hồi sinh/ cứu rỗi dân gian/ ghì đất nước/ trong vòng tay/ không tưởng/ phận mỏng dân đen/ mặt trời chết đứng/ tôi hỗn mang/ băng giá tật nguyền”…

Không chỉ nỗi vương vấn đời thường mà đã là nỗi trăn trở trong hồn cốt về một lẽ sống, về con đường phía trước cần lựa chọn. Cũng không chỉ cho riêng mình mà chính là nỗi trăn trở cho quê hương đất nước của bản ngã chân nhân. Nhà thơ đã chọn cách tiếp cận trong tâm thế “lực bất tòng tâm” nhưng với tình yêu Tổ quốc tận lòng. “Cao ốc bồng bềnh/ trời xanh mây trắng/ tầng kê tầng kế tiếp chon von/ chồng lấp mảng bê tông/ đẵm máu xương người thợ/ Nỗi oan khiên buốt đau lòng mẹ/ vợ mất chồng gia đình xé lẻ/ con mất cha côi cút phận nghèo/ canh bạc đời sấp ngửa nông sâu”…

Cảm thương những phận đời, phận người, từ bức tranh toàn cảnh về cuộc sống, nhà thơ thể hiện một tình thương yêu con người khi mạng sống người lao động bị coi rẻ. Để rồi điều cao cả luôn được nhà thơ khẳng định: “Ta hạt cát nhỏ nhoi/ trong miên man miền cát/ khao khát mặt trời/ ao sâu đầm nước mắt/ bồng bế nụ cười/ băng qua miền bất hạnh/ lấp lánh phận người/ phận mình/ số phận nhân dân”.

Đó là số phận của mỗi con người cần luôn được trân trọng. Đó là quyền tự do được sống, được mưu cầu hạnh phúc chính đáng chứ không phải là những phận người bập bềnh trong may rủi được thua hoặc trở thành những quân cờ trong tay kẻ khác.

Với thơ lục bát, nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu có khúc trầm sâu lắng: Từ tôi cánh gió phập phồng/ Ru mình mắt bão chiều đông đắm đò/ .../ Tôi như kẻ đã phải bùa/ Nát tình mấy bận chưa chừa cuộc yêu.

Đâu chỉ là cuộc yêu đôi lứa mà mãi đã là cuộc yêu nhân thế mặc những chuyển dời, kệ những đổi thay. Trong cả tập thơ, chị đã dành lục bát cho tình yêu đôi lứa như một quy ước hay chính là duyên tiền định cõi xưa? Cho dù sự lựa chọn có chủ định hay ngẫu hứng thì đó cứ là sự “vận vào” của cơ duyên: Cầm xưa biệt khúc ru người/ Bóng thời gian đổ khóc cười bể dâu/ À ơi, con sóng bạc đầu/ Ru trăm năm đã từng nhau một thời.

Hạt cỏ lông chông” là một tập thơ trăn trở những tỉnh thức, vương vấn những phận đời cùng những chiêm nghiệm bứt lòng rút ruột từ sâu thẳm cõi tâm. Sự vượt trước thời thế của một tâm hồn nhạy bén, của sự kế thừa và sự từng trải, nữ sĩ Nguyễn Bính Hồng Cầu đã viết nên một bản tâm ca khắc khoải những nỗi niềm. Những câu hỏi mà lời giải đáp đang là chấm phá mông lung đầy suy ngẫm, với biên độ mở ẩn chứa khát khao về tương lai. Sự nặng lòng với đời đã mang đến cho thơ chị mạch nguồn lẽ sống cuồn cuộn bứt phá tầng sâu. Chị đã đi tới đích mà mình mong muốn bằng cả tình yêu thương và sứ mệnh được gửi trao.

Sài Gòn, tháng 3/2021

T.M.H (Nguồn: Báo Văn Nghệ).

Các nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu - Trần Mai Hường
tại một buổi sinh hoạt ở Hội thơ Nghệ Tĩnh tại TP.HCM

Các bạn văn tại Nhà lưu niệm Nguyễn Bính.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Mai Quỳnh Nam và một phía
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về thơ Mai Quỳnh Nam
Xem thêm
Một đêm trăng không dễ có ở trên đời!
Bài viết của nhà văn Tuấn Trần.
Xem thêm
Một vọng âm quá khứ hào hùng nhưng lắm đau thương
Đọc “Hòa âm đêm”, Nxb Hội Nhà văn, 2024 của Trương Tuyết Mai
Xem thêm
Khám phá vương triều Tiền Lý qua tiểu thuyết lịch sử
Thượng tá, nhà văn Phùng Văn Khai là người khá đa di năng. Từ lúc bước vào văn nghiệp, anh viết kí, truyện ngắn, làm thơ, cày báo… đều đặn, thuộc dạng “nhạc nào cũng nhảy được” và nhảy khá hay.
Xem thêm
Triệu hạt tâm hồn rót đầy biển tình yêu
Võ Thị Như Mai đọc PHẢI CHI MÂY TRẮNG KHÔNG NGANG NGÕ, Nguyễn Đức Quận, NXB Hội nhà văn, 2024.
Xem thêm
Tiểu luận Võ Quốc Việt: Vài cảm nhận về Cuộc thi Thơ 1-2-3
Cuộc thi Thơ 1-2-3 (The 1-2-3 Poetry Style/ Phannist Poetry) năm 2024 – 2025 đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo các tác giả trong lẫn ngoài nước và đã công bố kết quả. Nhà lý luận phê bình, nhà thơ Võ Quốc Việt – Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam thay mặt Ban Chung khảo đã có bài tiểu luận công phu, sâu sắc mang tính tổng kết về cuộc thi. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Xem thêm
Đọc tập thơ Dọc đường máu của Vương Cường
Nguyên Hùng giới thiệu tập thơ mới của Tiến sĩ nhà thơ Vương Cường
Xem thêm
Vũ điệu tái sinh trong từng cơn đau
Bái viết về tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau” tập thơ của Trịnh Bích Ngân (NXB Hội Nhà văn, quý II, 2024)
Xem thêm
“Ai cũng có ngày xưa” của nhà thơ Trần Duy Hiển
Gió vẫn thổi suốt chiều dài trận mạc/ Người nhẹ nhàng nằm lại lúc vượt sông
Xem thêm
“Theo chồng về quê” của Mai Khoa – một bài thơ hay
Bởi yêu chồng từ lúc mới bén duyên/ Như tình biển yêu thuyền thương nhớ
Xem thêm
Trò Chuyện Với Thiên Thần – Những Tai Họa Thế Giới & Giấc mơ Việt Nam
Triết gia Hy Lạp Platon đã nói: “Thước đo của một con người là xem cách anh ta làm gì với quyền lực”. Thế nhưng, có rất nhiều người có quyền, vì lòng tham và ích kỷ cá nhân nên đã hủy hoại nhân cách và đất nước của họ (TCVTT/ Trương Văn Dân)
Xem thêm
Thi ca đương đại nhìn từ hệ hình nghệ thuật và chất suy tưởng của thơ
Sáng ngày 12.02.2025 tại Ninh Bình, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức tọa đàm “Trách nhiệm và khát vọng của nhà thơ”. Dưới đây là tham luận của nhà thơ Nguyễn Việt Chiến.
Xem thêm
Tôi đọc bài thơ Đừng sợ một mình của thi sĩ Trần Mạnh Hảo
Trần Mạnh Hảo và thơ ông đã sớm là “tín ngưỡng” đẹp nhất trong lòng của những người yêu thơ, quý chữ nghĩa chân chính. Từ thời còn trên giảng đường đại học, tôi đã từng nghe thầy tôi đọc những câu thơ trong trường ca Đất nước hình tia chớp. Từ đó, tôi bắt đầu săn sóc sự học, sự đọc về thơ ông.
Xem thêm
Hoàng đế Quang Trung, danh tướng bách chiến bách thắng
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, hiếm có một anh hùng nào như Hoàng đế Quang Trung, xuất thân áo vải, cả đời chinh chiến, danh vang bốn biển, đánh giặc lập nước, tôn vinh văn hiến, khuyến học khuyến tài, những bậc quốc sĩ danh thần cảm phục uy danh mà theo về giúp rập. Đặc biệt, trong hai lần đại phá quân Xiêm La và quân Thanh, ông đã bằng vào tài năng quân sự thiên bẩm của mình, đánh cho lũ giặc phía Nam, phía Bắc phải kinh hồn táng đởm. Ông từng hào sảng tuyên ngôn trong Chiếu xuất quân khích lệ tướng sĩ khi hành binh ra Bắc Hà đánh tan 29 vạn quân Thanh
Xem thêm
Mùa Xuân trong thơ Dương Xuân Linh
Bài viết của nhà thơ Phùng Hiệu
Xem thêm
Xuân về, đọc thơ Trương Nam Hương
Tuấn Trần viết về tập thơ “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương
Xem thêm
Tình yêu bển đảo trong thơ Lê Tiến Lợi
Nhà thơ Lê Tiến Mợi là một trong những người gắn bó lâu năm với nghiệp văn chương. Anh đã có số lượng tác phẩm khá lớn, trong đó một số sáng tác của anh đã chiếm được cảm tình của người đọc. Sau đây xin trân trọng gửi tới Ban Biên tập Văn chương thành phố Hồ Chí Minh bài viết về tình yêu biển đảo trong thơ anh. Xin chân thành cảm ơn Ban Biên tập khi được cộng tác với Văn chương thành phố Hồ Chí Minh.
Xem thêm
Mảnh trăng tinh tấn hàng cau trổ buồng
Cảm nhận về tập thơ SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Kẻ cày mây thu và gieo trồng muôn dặm sao
Bài viết của Tuần Trần về tập thơ “Những đám mây mùa thu” của Trần Quang Khánh
Xem thêm