TIN TỨC

Nhà thơ Quang Chuyền uống nước dòng Lô từ lúc lọt lòng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-11-01 23:18:12
mail facebook google pos stwis
604 lượt xem

NGÔ ĐỨC HÀNH

Trong tâm hồn bất cứ nhà thơ Việt Nam nào cũng vậy, quê là mẹ và ngược lại. Mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi con lớn khôn. Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất của tình cảm con người. Quang Chuyền không ngoại lệ.

Nhà thơ Quang Chuyền. Ảnh: Ngô Đức Hành

Tôi có một dòng trong kỷ niệm / Uống nước sông Lô từ lúc lọt lòng / Phù sa bến Tuần pha trong máu / Cho tôi một đời gạn đục khơi trong”. Đây là bốn câu thơ trong bài thơ bốn câu “Dòng sông kỷ niệm” của nhà thơ Quang Chuyền. Ông là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Đọc bài thơ, biết ông sinh ra và lớn lên tại bên dòng sông Lô.

Sông Lô, dòng sông của lịch sử và văn hóa. Con sông này, được ví như một “con rồng xanh” ưu tư, sau khi cuộn mình giữa núi rừng Việt Bắc, chảy qua nhiều tỉnh, trong đó có Vĩnh Phúc, trước khi hợp lưu ở Bạch Hạc (Việt Trì, Phú Thọ). Nhắc đến Lô giang, hẳn ai cũng nhớ “Trường ca sông Lô” của cố nhạc sỹ Văn Cao – được đánh giá là bản trường ca đỉnh cao ghi dấu sự trưởng thành của nền tân nhạc non trẻ của Việt Nam. Quang Chuyền đã từng “Uống nước sông Lô từ lúc lọt lòng”.

Nhà thơ Quang Chuyền tên thật Trần Quang Chuyền, còn có các bút danh khác là Việt Nguyên, Quang Thanh. Ông sinh vào mùa thu Cách mạng tháng Tám, tại xã Sơn Đông, huyện Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc. Hiện nay nhà thơ Quang Chuyền cùng gia đình sống tại quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

Quang Chuyền làm thơ từ rất sớm. Ngay từ những ngày học phổ thông anh đã có thơ in báo. Năm 1968 đã có thơ in trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Thời đó, được đăng thơ trên một trong những báo chí văn học hàng đầu như tờ tạp chí văn nghệ này của quân đội, thật “không phải dạng vừa đâu”.

Năm 1966, sau khi tốt nghiệp Trung cấp Sư phạm Việt Bắc, Quang Chuyền được nhận về làm phóng viên cho Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc ngay.  Chiến tranh ngày càng diễn ra khốc liệt. Sau 7 lần viết đơn xin nhập ngũ, kể cả viết đơn bằng máu của mình, năm 1968, Quang Chuyền trở thành lính ở Trung đoàn thông tin 132, có nhiệm vụ xây dựng đường dây thông tin liên lạc từ Bắc vào Nam, xuyên Trường Sơn. Sau đó hơn 2 năm, ông được điều về Phòng Chính trị Binh chủng Thông tin liên lạc làm công tác tuyên truyền và sáng tác.

Từ năm 1972, bàn chân người lính thông tin Trần Quang Chuyền đã xuyên Trường Sơn tham gia cùng đoàn quân giải phóng cho đến ngày đất nước thống nhất. Những ngày “máu và hoa ấy”, “tiếng thơ” Quang Chuyền cất lên tinh thần chiến thắng. “Hóa ra, Trường Sơn là cái nôi dinh dưỡng tạo ra những nhà thơ, nhà văn”, (Nguyễn Thụy Kha). Như vậy, Quang Chuyền là nhà thơ thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ.

Cho đến nay, nhà thơ Quang Chuyền đã xuất bản 16 tác phẩm, lâu nhất là “Khoảng cuối mùa thu”, (thơ 1999), mới nhất là “Ký tự mưa chiều”, (thơ 2019). Ông cũng đã có nhiều thành tựu văn chương, có thể kể đến “Giải ba cuộc thi thơ Văn nghệ Quân đội”, “Giải Nhì thơ Binh chủng Thông tin Bộ Quốc phòng”; “Giải ba viết về Giao thông vận tải” do Hội nhà văn Việt Nam và Bộ GTVT đồng tổ chức năm 2015; Hội Nhà Văn Thành phố Hồ Chí Minh tặng thưởng cho tập thơ “Tiếng vọng dòng sông”, năm 2013.

Với tôi, thơ ví như người bạn đời ân tình, chung thủy. Thơ giúp tôi giãi bày lòng mình. Tôi đồng hành cùng thơ, ước mong tìm sự đồng cảm”, nhà thơ Quang Chuyền quan niệm.

Thơ Quang Chuyền phong phú về đề tài, trường biên độ cảm xúc. Năm 2014, nhân tổ chức Trại sáng tác Văn học viết về đề tài Giao thông vận tải tại TP. Hồ Chí Minh cho các nhà văn phía Nam tôi mới được gặp Quang Chuyền. Ông hiền lành, ít nói, nhưng không kém phần hóm hỉnh. Dẫu sau giải phóng đất nước, đã gần nửa thế kỷ lập nghiệp tại TP. Hồ Chí Minh, nhưng Quang Chuyền vẫn là con người “quê kiểng”. Chính ông tự họa: “Ta là một gã nhà quê / Bước đời không định lạc về phố đông / Bữa ăn thường thích cua đồng / Dưa chua, tương mặn, cải ngồng bãi soi”, (Tự họa). Chính vì thế, mảng thơ về quê hương Vĩnh Phúc, về người thân khá có “diện mạo”, những bài thơ viết về quê cảm xúc lắng đọng.

Thơ là người. Đọc thơ Quang Chuyền nhận ra ông là con người thủy chung. Quê hương, đúng là mỗi người chỉ một, dẫu bây giờ xã Sơn Động – nơi “chôn nhau cắt rốn” của ông đã khác xưa rất nhiều nó vẫn luôn là “khoảng trời” thương nhớ.

Quê nhà mỗi lúc khác quê

Chờ con, vuông đất, bờ tre, xóm giềng

Con đi gìn giữ đường biên

Núi sông lòng mẹ nối liền về con

(Nhà mẹ có con đi xa)

"Một đời sông mẹ trôi ghềnh thác / Chưa một mùa vui gặp khúc trong", thơ Quang Chuyền

Trong tâm hồn bất cứ nhà thơ Việt Nam nào cũng vậy, quê là mẹ và ngược lại. Mẹ mang nặng đẻ đau, nuôi con lớn khôn. Tình mẫu tử là tình cảm thiêng liêng nhất của tình cảm con người. Quang Chuyền nhớ về quê, nhớ về mẹ với biết bao day dứt ân nghĩa sinh thành: “Mẹ ơi tết đến vui con cháu / Con ngước trời mây chợt lạnh lòng / Một đời sông mẹ trôi ghềnh thác / Chưa một mùa vui gặp khúc trong”, (Ngày xuân nhớ mẹ). Hẳn nhiên, day dứt nghĩa hiếu là tiếng lòng chung của mọi đứa con. Với người trọng tình nghĩa như Quang Chuyền, quê hương, bố mẹ luôn là cảm xúc ám ảnh: “Cha vác xá cày mẹ gồng gánh lúa / Trọn đời người hắt bóng lệch đường thôn”, (Từ đường làng bước sang đại lộ)

Nhà thơ Huy Thắng, bạn Quang Chuyền kể rằng, mối tình đầu của Quang Chuyền chính là mối tình duy nhất. Thuở đi học Sư phạm, Quang Chuyền quen rồi yêu người bạn học, quê Tuyên Quang. Mối tình mơ mộng ấy kéo dài mấy năm. Oái oăm là gần đến ngày cưới thì chị chẳng may gặp tai biến, ảnh hưởng nặng đến sức khỏe. Nhiều người lo ngại cho Quang Chuyền, bản thân ông cũng suy nghĩ rất nhiều. Nhưng rồi sau nhiều thao thức, trăn trở, ông thuyết phục mẹ: “Con gái có thì, người ta đã bao năm chờ đợi, nay chẳng may gặp tai ương sao đành rời bỏ? Đạo lí, tình nghĩa để đâu, nếu bỏ họ?’. Người mẹ ái ngại, cũng là vì tâm lý nước mắt chảy xuôi truyền thống.

Quyết tâm của ông được đơn vị, gia đình, họ hàng ủng hộ. Đám cưới được tổ chức ngay khi sức khoẻ người yêu dần dần hồi phục. Ông trời có mắt. Sau khi xây dựng gia đình, sức khoẻ của vợ ông khá lên. Bà đã sinh cho ông ba người con, hai trai một gái, các cháu trưởng thành có công ăn việc làm ổn định và hiện đã “con đàn cháu đống”. Chuyện tình của ông bà, cho đến bây giờ vẫn là một giá trị của đạo đức.

Lắng vào ký ức nơi quê

Thẳm nghe tiếng cỏ nhắc về chuyện xưa

Bên sông khuất vắng người chờ

Dòng sông như thiếu một bờ… là tôi

(Dòng sông một bờ)

Bài thơ này nhà thơ Quang Chuyền sáng tác trong một lần trở lại quê nhà, tâm hồn chìm đắm bên dòng Lô giang ký ức. Phàm là con người phải biết thương yêu gia đình, người thân mới biết thương yêu đồng loại. Biết yêu làng mới biết yêu đất nước.

Là người lính đi qua chiến tranh, Quang Chuyền vẫn tiếp tục với đề tài hậu chiến. “Bạn bè khuất bóng chiến tranh / Người vào cõi lão, người thành dáng mây”…” Nhang trầm thơm thoảng tiếng ơi / Gọi nhau để nhớ cuộc đời còn nhau”, (Trong khói nhang bay). Bài thơ này, Quang Chuyền viết đúng vào ngày 30/4/2015, khi cả dân tộc kỷ niệm 40 năm Ngày Thống nhất đất nước. Nhà thơ Quang Chuyền, không ít lần trở lại chiến trường xưa, tìm đồng đội.

Ở đây chôn dấu tháng ngày

Chân dầm trong nước, mây bay trắng đầu

Ở đây vùi lấp niềm đau

Xác người, xác đất trong nhau ngập chìm

(Tìm trong rừng đước)

Hiểu được sự khốc liệt của chiến tranh, mới biết nâng niu những giá trị của hòa bình. Thơ của những nhà thơ từng mặc áo lính như nhà thơ Quang Chuyền luôn có ý nghĩa thông điệp.

Mặc dù tuổi đã cao, nhà thơ Quang Chuyền gần bước vào tuổi bát thập. Thế nhưng, với người làm thơ, cuộc đời luôn bám lấy họ, dằn vặt trái tim họ. Nhà thơ hơn ai hết được sở hữu sư cô đơn, kể cả nỗi đau. Quang Chuyền không ngoại lệ. Chính vì thế, ông vẫn tiếp tục viết mảng thơ thế sự. “Với tay vào nắng xế chiều / Chợt nghe trong nắng rất nhiều lạnh mưa”, (Chạm tay xé lịch).

Trái tim mẫn cảm của nhà thơ Quang Chuyền tiếp tục rung lên nhịp đập cùng nhân sinh. “Một đoạn phố đời luôn xẻ làm hai / Phía náo nức phía tủi buồn đi đến” (Đi qua nơi tôi ở); “Nơi này thiếu vắng bóng quê / Chim ơi sao lạc cơn mê phố phường”, (Tiếng chim trong thành phố); “Sẹo người / Sẹo đất / Sẹo cây / Còn thêm vết sẹo / Tháng ngày / Khó quên”, (Ngẫu khúc).

Thơ Quang Chuyền dung dị, thủ thỉ đầy cảm thông, chia sẻ với thân phận người từ quê ra phố mưu sinh, lầm lụi. Dẫu biết đó là quy luật trong cõi nhân gian này.

Nguồn: https://vlr.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Trong màu xanh Vàm Cỏ
Nhà văn Hào Vũ, sinh năm 1950. Quê quán: An Hải, Hải Phòng. Dân tộc: Kinh. Hiện thường trú tại 6/3 Cư xá phường 3, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984.
Xem thêm
Đỗ Thành Đồng và chuyển động đường thơ
Sau gần 15 năm đắm say đến điên cuồng với thi ca, nhà thơ Đỗ Thành Đồng, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đã xuất bản 7 tập thơ.
Xem thêm
Chuyện tình khó quên của Trịnh Công Sơn
Bài viết của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn
Xem thêm
Nhà văn Di Li: Tôi bị hấp dẫn bởi người đàn ông nhân văn, tử tế
Tôi nghĩ rằng, là người văn minh thì phải chấp nhận sống chung với sự khác biệt, tuy nhiên, sự khác biệt đó nếu không tốt, muốn người ta thay đổi thì mình sẽ góp ý. Và cách góp ý của mình cũng khá hài hước nên người nghe không mấy khi khó chịu.
Xem thêm
Người tốt trại Vân Hồ
Nhà văn Trung Trung Đỉnh, Giải A cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn, 1998 – 2000) với tiểu thuyết Lạc rừng. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Xem thêm
Nhớ nhà báo Phú Bằng
Đọc bác Phú Bằng từ lâu, khi tôi còn trực tiếp cầm súng ở Trung đoàn 174 Sư đoàn 5 thời chống Mỹ. Lúc ấy bác Phạm Phú Bằng là phóng viên báo QĐND được tăng cường cho báo Quân Giải phóng Miền Nam.
Xem thêm
Nhà văn - dịch giả Trần Như Luận với tác phẩm “Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh - Mỹ kinh điển, lừng danh”
Tháng Sáu 2022, trên Báo Thanh Niên rồi Tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, nhà báo Hà Tùng Sơn và nhà phê bình văn học Vân Phi giới thiệu tác phẩm thứ 7 của nhà văn Trần Như Luận (TNL): tiểu thuyết Gương Mặt Loài Homo Sapiens. Trước đó, anh từng gây tiếng vang nhờ giá trị đáng kể của bộ tiểu thuyết Thầy Gotama và 8000 Đệ Tử dày tới 1.200 trang, trình làng năm 2014. Chúng tôi cũng biết tới cả trăm tác phẩm dịch của anh, cả thơ và truyện, xuất hiện trên các tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, Văn nghệ Quân đội, Non Nước, Sông Hương, v.v… Xuân Giáp Thìn 2024, nhà văn ra mắt một “dịch phẩm” hoàn toàn mới: Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh – Mỹ kinh điển, lừng danh. Sách dày 320 trang, bìa bắt mắt. Sách được Liên hiệp các Hội Văn học-nghệ thuật Việt Nam thẩm định chất lượng và hỗ trợ kinh phí; NXB Hội Nhà văn cấp phép. Nhân một cuộc hẹn thú vị tại Quận 7, TP Hồ Chí Minh, trong một quán cà phê tao nhã, không bỏ lỡ cơ hội, tôi đã thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Xem thêm
Nhớ anh Mai Quốc Liên
Bài viết của nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Nhà văn Trầm Hương: Sứ mạng nhà văn là đi tìm những ẩn số
Hàng chục năm nay, nhà văn Trầm Hương (Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM) vẫn âm thầm theo dấu chân những anh hùng, người lính, mẹ liệt sĩ… để tìm nhân vật cho những trang sách của mình. Chị ghi dấu ấn đậm nét trong dòng văn học cách mạng hiện nay.
Xem thêm
Thương nhớ anh Duy
Tôi viết ra đây mấy lời tâm sự như thắp một nén nhang kính nhớ thương tiễn anh Duy về trời cùng đàn anh Lê Văn Thảo...
Xem thêm
Nhà văn Ann Patchett: Thời gian tuyệt vời nhất là ở trên máy chạy bộ và viết sách
Ann Patchett là nhà văn Mĩ, tác giả của 9 cuốn tiểu thuyết, 4 cuốn sách phi hư cấu và 2 cuốn sách dành cho trẻ em. Trong văn nghiệp, bà từng giành giải Orange cho Bel Canto, cũng như lọt vào danh sách chung khảo giải Pulitzer 2020 với cuốn Ngôi nhà của người Hà Lan. Gần đây bà đã cho ra mắt cuốn tiểu thuyết mới mang tên Tom Lake, và điều đặc biệt là nó được viết trên bàn đặt trên máy chạy bộ và lời khuyên về năng suất từ ​​Elizabeth Gilbert.
Xem thêm
Lê Minh Quốc và cuộc hành trình chữ nghĩa
Bài của nhà thơ Ngô Xuân Hội trên báo Văn nghệ.
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Thành Phong: Với chữ nghĩa, tôi như người đang yêu
Gọi Nguyễn Thành Phong là nhà thơ, nhà văn, biên kịch hay cái danh mà mang nhiều nghiệp nợ nhất là nhà báo, thì viết gì, dù là kiếm sống, anh cũng phải cố ở mức tốt nhất theo ý mình thì mới cho là được. Với chữ nghĩa, Nguyễn Thành Phong ví anh như người đang yêu, càng bị “ruồng rẫy”, càng thấy không thể bỏ cuộc.
Xem thêm
Vũ Cao - “Núi Đôi mãi mãi vẫn là Núi Đôi”
Nói đến nhà thơ Vũ Cao không thể không nói tới bài thơ Núi Đôi.
Xem thêm