TIN TỨC

Nhà văn Nguyễn Một - Người mắc nợ ký ức

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-10-16 11:54:06
mail facebook google pos stwis
369 lượt xem

Lê Trâm

Quê nhà Nguyễn Một thời chiến tranh là vùng đất “xôi đậu”, nơi ngày nào cũng xảy ra chiến sự, các bên giành nhau từng mét đất. Cha bị bắn chết khi ông còn trong bụng mẹ. Chưa được bốn tuổi, mẹ bị viên đạn lạc bắn ra từ một lô cốt của lính Mỹ, trút hơi thở cuối cùng khi đang ôm con ngủ… Những ám ảnh ấy chừng như khiến anh trở thành người mắc nợ ký ức, được bày biện với chính mình trong tập “Truyện ngắn Nguyễn Một” (NXB Hội Nhà văn - 2020).

Nhà văn Nguyễn Một

Quê nhà một cõi…

Có lẽ không phải ngẫu nhiên Nguyễn Một mở đầu cuốn “Truyện ngắn Nguyễn Một” với tác phẩm “Tha hương”. Nơi đó, được khái quát đơn giản nhưng dễ hình dung: “Quê tôi nghèo nhưng có một dòng sông rất đẹp. Dòng sông là tài sản lớn nhất của tuổi thơ tôi”. Ở đó, có núi Chúa như một chứng nhân nhìn xuống làng mạc, nhìn xuống bao phận người giữa thời ly loạn, là cụm tháp Mỹ Sơn đẹp ma mị chứa đựng bao nhiêu câu chuyện huyền hoặc phủ lên suốt một tuổi thơ đầy biến động của tác giả. Là vùng rừng đồi gò cằn khô sỏi đá với những câu chuyện kể không dứt của người lớn, về một gia tộc có những số phận kỳ lạ, về những cái chết của bên này lẫn bên kia, những cái chết “không ít điều kỳ lạ”, về những cuộc bỏ xứ ra đi, có kẻ quay về có người đi biệt…

Trong “Truyện ngắn Nguyễn Một”, những tên truyện nghe qua đã thấy nao lòng: “Sông xưa”, “Xứ người”, “Viễn xứ”, “Gió núi”, “Thanh minh”… Trong bước đường tha hương, quê nhà thỉnh thoảng cứ dội lại trong tâm khảm người viết, không dứt được. Nhiều lúc bật lên trong câu chuyện cứ như những lời tự sự: “Tôi mang cái sinh lực tràn trề của tuổi hai mươi lên đường lập nghiệp. Tôi sẽ đến một vùng đất màu mỡ. Nghe anh Nam kể, xứ đó cây sắn vứt ngoài hàng rào, vài tháng sau nhổ lên củ to bằng bắp chân. Chứ không như cái miền quê nghèo khó này, trồng được củ sắn bằng ngón chân phải tốn cả gánh phân chuồng. Tôi đã chán tột cùng sự nghèo khổ truyền kiếp. Cậu tôi quanh năm xòe bàn chân “Giao Chỉ” bám trên những thửa ruộng khô khốc, để đổi lấy ngày hai bữa cơm độn, ăn xong ợ lên rát cổ họng. Tôi ra đi. Cái tình nghĩa quê hương, mà cậu tôi bỏ công giáo dục từ nhỏ, chẳng hề lóe sáng trong sự mông muội của đầu óc đã tê liệt vì đói khổ. Thật ra, tôi có chút xao động khi cô gái mà tôi dự định cưới làm vợ đã khóc ướt đẫm ngực áo trong đêm chia tay. Dù thế nào tôi cũng sẽ đi!” (Xứ người).

Chiến tranh luôn ám ảnh, thỉnh thoảng dội lại trong hồi ức. Cái chết của Hương trong “Tiếng chim sẻ trong thánh đường” chắc chắn có sự liên tưởng về cái chết oan nghiệt của người mẹ năm nào: “Hương nằm như đang ngủ. Một viên đạn vô tình xuyên qua lồng ngực tuổi dậy thì của em. Chiến tranh! Tôi nghe mẹ Hương kể rằng “Trước lúc hấp hối, con Hương muốn được quàn trong thánh đường nhỏ bên nghĩa địa”.

 Ở truyện “Viễn xứ”, phía sau cái giọng Quảng Nam đặc sệt bày ra trong câu chuyện là một cái kết buồn. Từ buổi sơ giao không xa ấy: “Nè! Cô lòm ơn chỉ dùm nhà ven hóa chỗ mô?- Chớ ông ở mô mà không biết nhà ven hóa?-…- Quảng Nom!”. Và người con trai ấy đã chết sau một lần đùa với cô gái. Buổi chiều mưa buồn cô gái mỏi mòn chờ chiếc xe tang đưa anh về quê.

Không còn gì buồn hơn nữa với một kiếp người tha hương: “Trời sập tối. Mưa nặng hạt. Dãy nhà hai bên đường đóng kín cửa. Chiếc xe màu đen từ từ lăn bánh vào thị trấn và dừng lại trước con hẻm. Xe tang của Trọng. Hạnh như dính chặt vào ghế không đứng lên nổi. Người phụ nữ đứng tuổi thò đầu ra ngoài nhìn quanh rồi khoát tay. Chiếc xe trở đầu khuất dần trong làn mưa mờ đục. Hạnh lao ra đường, mưa quất vào mặt rát rạt”. Một đoạn văn đặc tả như một shot phim hay. Theo tôi, đây là đoạn văn cô đọng và hay của Nguyễn Một.

Ghi dấu đậm nét về một quê xứ có lẽ là “Giếng tiên”. “Ngày ông tổ tộc Trần đến lập nghiệp, lúc đó nơi đây còn là rừng rậm, đã có giếng này. Hồi xưa cả làng xài chung, bây giờ người đông nên nhà nào cũng đào giếng riêng gần nhà. Vì vậy, giếng tiên thành sở hữu của gia đình tôi.

Ngôi nhà từ đường to lớn của tộc Trần do ông tôi cai quản, mảnh vườn không lớn lắm nhưng có nhiều loại trái cây”. Câu chuyện của nhân vật xưng “tôi” và chị Sinh có nhiều tình tiết nhưng ám ảnh nhất vẫn là cái chết của người mẹ, qua lời kể của ông, lại hiện về đỏ sẫm dưới trăng. “Mẹ mày chết đêm Rằm tháng Mười, linh lắm… Tôi còn nhớ hôm đó trăng sáng như ban ngày, đang thiu thiu ngủ nghe heo kêu, tôi cầm đèn ra coi thử, đi ngang gường con nhỏ, tôi giẫm nhằm vũng máu mới hay nó chết. Tội nghiệp con nhỏ, nó mới mười chín tuổi đầu. Các anh biết không, một viên đạn đại liên trên đồn Bốn Lăm bắn xuyên qua đầu con nhỏ, may mà thằng này (ông chỉ tôi) nằm dưới nách mẹ nó, nên viên đạn trượt qua đầu nó, làm bị thương con heo đằng sau nhà...”. Một cái chết đầy ám ảnh nên hằn lên trong trí nhớ mọi người!

Có cảm giác ký ức như món nợ dai dẳng thỉnh thoảng cứ hiện lên, không nơi này thì nơi khác. Là người, trong “Chiều tha hương”: “Ông thường nhớ những buổi chiều xa lắc xa lơ. Từ dạo ông còn là chú bé làm cái việc thắp nhang cho vô số bàn thờ trong căn nhà từ đường rộng mênh mông… Ông còn nhớ mỗi buổi chiều như vậy, ông thường thơ thẩn nhìn xa xăm về phía triền núi Chúa”. Ở đó có những con người “quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, vậy mà con gái Mỹ Sơn cứ xinh đẹp mơn mởn và trắng như bông bưởi...

Những cái nhớ như vậy, dai dẳng: “Làng Phú Đa nằm cạnh chân núi Chúa. Trai làng khỏe mạnh nhất vùng, những bắp thịt săn cuồn cuộn, có lẽ do những tháng ngày lùng sục, bắt núi rừng cúi đầu dâng cho họ cái ăn cái mặc để bù lại sự cằn cỗi của cánh đồng bậc thang khô rốc, nứt nẻ dưới cái nắng chói chang của mùa hè và những ngọn gió hun hút thổi cháy người”.

Rồi “Sông xưa” với cô gái hái dâu đã ngã xuống dòng sông trong “một buổi chiều nhạt nắng, bãi dâu bên bồi, chuyển sang màu xanh thẳm” (Khoảnh trời sót lại)… Tất thảy, quá đủ để làm nên bao nhiêu sự ám ảnh!

Xứ người

Không gian truyện ngắn Nguyễn Một là vùng đất anh đã chọn để sống. Ở đó, một vùng Đông Nam bộ không kém khắc nghiệt, nhất là thời điểm sau khi kết thúc chiến tranh. Nhà văn Nguyễn Hiệp chọn rất đúng cụm từ để nói về sự lựa chọn ấy trong một bài viết: “Mê lộ trong hành trình tha hương”, con đường để trở thành một nhà văn tiếng tăm không hề dễ dàng. Không gian ấy thể hiện rất rõ cùng những số phận, đa phần là lưu dân, không kém phần nghiệt ngã. Thấy rất rõ khi đọc những: “Thị trấn thiếu dòng sông”, “Chuyện tình trong rừng cấm”, “Hoa mua bên hồ”, “Mắt lá”, “Vũ điệu trên đỉnh Kung Pô”… Những đặc trưng văn hóa của các dân tộc ít người như Châu ro, Mạ, Tày Mường, được Nguyễn Một viết lên theo kiểu khác, thường là những câu chuyện tình buồn, đầy trắc trở và không kém phần nên thơ đã khiến truyện đọc rất lôi cuốn.

Chỉ với 20 trang sách, một miền Đông Nam bộ hiện ra khá kỳ vĩ dưới ngòi bút của Nguyễn Một qua truyện ngắn “Trước mặt là dòng sông” nên không có gì làm lạ khi đạo diễn Khải Hưng đã chọn để dựng thành phim. Cũng vậy, “Xứ người” là một cách khắc họa khác về vùng đất đã níu giữ chân bao lớp người lưu lạc, đã đến, lưu lại, sống và trở thành “người cũ của vùng đất mới”. Sự gặp gỡ, “giao thoa” giữa người cũ - người mới sau này đã làm nên một lớp công dân mới, một cố kết xã hội mới ở vùng đất này, thể hiện khá rõ nét qua “Miền Đông”. Và, hầu hết không gian truyện đã đề cập vẫn là sự đan xen giữa cảnh cũ, người với đất mới - người mới, qua sự “kết nối tài tình” của tác giả.

Tương tự như vậy một “Lửa bên sông”, đã vẽ lên rất rõ nét một Đồng Nai đầy mê hoặc như câu ca dao tác giả chọn làm đề từ: “Rồng chầu xứ Huế, ngựa tế Đồng Nai/ Nước sông trong đổ lộn sông ngoài/ Thương người xa xứ lạc loài tới đây”. Truyện đọc nghe buồn như một nỗi ngậm ngùi cùng lòng người xa xứ! Truyện Nguyễn Một cứ như những lời tự sự, những lớp kể nhẩn nha.

Những tình tiết truyện mới cũ trôi đi, đan xen. Hầu hết các truyện đều kết cấu bởi nhiều xen cảnh khác nhau, đan xen kiểu kết cấu điện ảnh nhờ thế không gian truyện được mở ra khá nhiều và mạch chuyện cũng mở ra nhiều hướng giúp hạn chế được sự đơn giản, đơn điệu của câu chuyện.

Nhiều câu văn ngắn, gọn, súc tích khiến mạch kể trôi đi khá nhanh đồng thời tạo nên nhiều sự liên tưởng, “đồng sáng tạo” ở người đọc. Phần lớn các truyện viết dựa vào các câu thoại khiến truyện gần gũi cuộc sống, sống động hơn, có cảm giác đang đọc một truyện ngắn “như thiệt”. Như đời vốn vậy!

L.T

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà thơ Ngọc Khương vẫn giữ được một tâm hồn thơ trong trẻo
Nhà thơ Ngọc Khương sinh năm 1949 tại Quảng Bình. Mảnh đất Quảng Bình đã góp cho nền văn chương Việt Nam hiện đại nhiều tên tuổi như Lưu Trọng Lư, Xuân Hoàng, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Xuân Đố, Hải Kỳ, Ngô Minh, Hoàng Vũ Thuật, Trần Quang Đạo…
Xem thêm
Hoàng Lan - Truyện ngắn Trần Thế Tuyển
Không nói chuyện không thể biết chị là người Việt. Mỗi sáng, tôi mở cửa mang rác ra vệ đường, nơi có thùng rác công cộng đều gặp chị. Là hàng xóm, nhà chị sát vách nhà con gái chúng tôi, nên tôi thấy chị cũng thường xuyên đổ rác.
Xem thêm
Mặn nồng một chút tình thơ với nhà giáo Phạm Như Vân
Rời chiến trường / Thầy về hậu phương/ với những vết thương đau nhức trên mình/ và một bên chân đứt lìa gửi lại/
Xem thêm
Trắng tay mình những cánh ngọc lan tang
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Nguyễn Tấn On với tập Tiết tấu thơ
Nhận được tập sách Tiết tấu thơ của Nguyễn Tấn On gửi tặng vào một chiều cuối thu đã muộn, tôi vội mở ra và tìm đọc ngay bài thơ cùng tên. Tên tập thơ và những câu thơ trong bài thơ cùng tên với thi tập Tiết tấu thơ đã tạo cho tôi ấn tượng. Ở đó, hiển hiện tâm thế, tấm lòng, sự chân thành của một người yêu thơ và sống trọn vẹn cho thơ.
Xem thêm
Những vần thơ nẩy mầm đơm hoa theo dấu chân nhà thơ khoát áo lính
     Tôi cầm trong tay tập thơ “Quang Chuyền thơ và đời” điện thoại hỏi anh: “Đây có phải là tuyển tập thơ không anh”? Anh cười: “Cũng là gom các bài thơ viết cả đời lại thành một tập, vì mình nay cũng đã tới ngưỡng tuổi 80 rồi”. Cắm cúi đọc hết tập thơ,tôi mới hiểu ra đây gần như là tập nhật ký bằng thơ của nhà thơ Quang Chuyền.
Xem thêm
Trình Quang Phú - tầm nhìn trong kí sự
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội
Xem thêm
Êm ả một nỗi buồn của Lê Hoàng Anh
Rút từ tập thơ “Hạt Thời Gian” của Lê Hoàng Anh
Xem thêm
Cảm nhận về tập phê bình văn học “Đi tìm hương sắc văn chương” của Nguyễn Thanh
“Hương là mùi thơm, sắc là vẻ đẹp”. “Đi tìm hương sắc văn chương” * chính là thấu cảm sự thanh cao (hương) và trác tuyệt (sắc) của văn chương. Điều gì làm cho đời người thêm phong phú, điều ấy chính là cái Đẹp. Nước ta tự hào là “Văn hiến chi bang” với một nền văn học thơm hương đậm sắc. Cái hương sắc ấy trường tồn trong nhiều thư tịch, gởi tấm lòng người viết để lại muôn đời. Nếu người xưa quan niệm trong sách có người ngọc (Thư trung hữu nữ nhan như ngọc), thì ngày nay Nguyễn Thanh lại tìm thấy “hương sắc” trong văn chương ! Gẫm lại, người đẹp cũng chính là hương sắc (Quốc sắc thiên hương).
Xem thêm
Lưu Quang Vũ- Để gió và tình yêu thổi mãi
Lưu Quang Vũ (1948-1988) là một nghệ sĩ tài năng trên nhiều lĩnh vực: thơ, văn, kịch, họa... ông được đánh giá là nhà viết kịch xuất sắc nhất của nền kịch Việt Nam hiên đại, bên cạnh đó ở lĩnh vực thơ ông cũng có những đóng góp giá trị.
Xem thêm
Hoàng Phủ Ngọc Tường – Người hái nỗi buồn trong cõi phù vân
Không phải ngẫu nhiên trong Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, tập 4 – Thơ (Nxb. Trẻ ấn hành, 2002), trong lời mở đầu ông đã xác quyết: “Mỗi người chỉ thực là chính mình trong căn nhà của nó. Thơ cũng vậy. Thơ cần phải trở về căn – nhà - ở - đời của nó là nỗi buồn. Một quyền của thi sĩ là quyền được buồn”. (1)
Xem thêm
Lưu Quang Vũ từng say đắm 3 Nàng Thơ
Công chúng ngưỡng mộ nhà viết kịch Lưu Quang Vũ (1948-1988) không chỉ bởi những vở diễn “Tôi và chúng ta”, “Hồn Trương Ba da hàng thịt”, “Tin ở hoa hồng”, “Lời thề thứ 9”, “Hoa cúc xanh trên đầm lầy”, “Lời nói dối cuối cùng”... có sức rung động mạnh mẽ, mà còn bởi trái tim đa cảm mà ông thổ lộ trong thơ “đã có lần tôi muốn nguôi yên/ khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng/ nhưng vô ích làm sao quên được/ những yêu thương khao khát của đời tôi”.
Xem thêm
Quang Chuyền: Sáng một tấm lòng lành
Với nhà thơ Quang Chuyền, đã có rất nhiều báo, đài dựng chân dung, phỏng vấn, viết về ông và thơ của ông. Những trình bày của tôi hôm nay, chỉ là góp thêm một góc nhìn về một đời người, một đời thơ khá đồ sộ, một sự nghiệp thơ vững vàng, đáng ngưỡng mộ.
Xem thêm
Hồi ức chân thực của một người lính thời chống Mỹ cứu nước
Nhân đọc tập Ký - Tản văn Tìm dấu chân xưa của Trần Ngọc Phượng, Nxb Hội Nhà văn
Xem thêm
Tĩnh vật - Thơ
Bài đăng Văn nghệ số 33/2023
Xem thêm
Người suốt đời nhập cuộc thơ
Quang Chuyền ở Hội Văn Nghệ Việt Bắc ba năm, năm 1968 chích máu viết đơn xin đi bộ đội, ở binh chủng Thông tin cho tới ngày nghỉ hưu.
Xem thêm