TIN TỨC

Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-09-05 08:40:05
mail facebook google pos stwis
869 lượt xem

BÙI PHAN THẢO

(Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường)


Nhà thơ Bùi Phan Thảo tại cuộc ra mắt tập thơ "Lục bát chân mây", sáng 04/9/2024 - Ảnh Nguyên Hùng.

Với tập thơ mới nhất, “Lục bát chân mây” – NXB Hội Nhà văn -2024, một lần nữa Võ Miên Trường cho thấy chọn lối vào trái tim bạn đọc đông đảo thì lục bát là một phương tiện khả dĩ. Trên lối đi ấy, người sáng tạo dọn đường cho lục bát không chỉ hoa cỏ xôn xao mà cả mây trời lắng lại; những chiều hôm quạnh quẽ hành trình hay sớm tinh mơ bừng một niềm tin về một chân lý đã xác tín, một bổn phận đã hoàn thành hay sứ mạng phải mang vác.

Nặng trĩu hoặc nhẹ tênh không còn quan trọng nữa, bởi vì lòng người đã an yên sau những tháng năm dài dấn mình vào đời sống. Thơ, lúc này như một vỗ về, một hòa âm dịu ngọt để ru người và cả ru mình: “Chân mây lục bát đa đoan/ em lần từng hạt đa mang dỗ mình”.

Chân mây đó, được thắp nắng, rọi vào những xa xanh, ngỡ như vượt thoát khỏi những tục lụy, vướng víu, ngỡ như đã “trút hết phân vân”, “trả đêm thăm thẳm”, thế nhưng:

Em về duyên trốn theo cùng/ cưu mang em lại đành bồng bế duyên/ mốt mai ước trước cửa thiền/ chạm anh – đừng chạm lại miền nhau xưa” (Thắp nắng chân mây)

Ước nguyện trước cửa thiền của nhà thơ nghe qua thấy có phần khác người và dường như phi lý: “chạm anh – đừng chạm lại miền nhau xưa”. “Chạm” và “anh” đều là thực thể; “miền nhau xưa” cũng là thực thể song có khi chỉ là một phần trong tâm thức, còn lại đã biến tan. Nhưng đời sống và tình yêu có những điều không cần luận giải, chính cái ngỡ đã biến tan mới là cái mãi còn, chất chứa những gì đẹp nhất, lung linh nhất, là cõi mộng của một thời…

Trong tập thơ này, Miên Trường nói nhiều về sự “vỡ”. Đó là nắng vỡ “chạm nhau nắng vỡ trên nhành gió lơi”, là sương vỡ “giọt sương vỡ tiếng nghe rằm gọi trăng”, là “vỡ tôi”:

Nứt chiều vỡ ngọn heo may/ rừng cây vỡ biếc tôi đây vỡ gì/ lá vàng vỡ tiễn mùa đi/ dốc quanh vỡ vạt cúc quỳ vàng bông/ một ngày sóng vỡ thành sông/ chảy xuôi về phía hư không vỡ sầu/ nghiêng rằm vỡ mảnh trăng đau/… phủi tay hạt bụi lập trình vỡ tôi”…

Chất nghiệm sinh trong thơ lục bát của Miên Trường cứ thấm dần trong những câu thơ tự tình. Đâu đây nghe ra tiếng vỡ của nhận thức “với tay chạm cánh cửa thiền/ thoảng hồi chuông đổ vỡ miền tử sinh”; “đêm khan vỡ tiếng rao mời/ ai mua tôi bán lãi lời dại khôn”.

Trên hành trình cuộc sống, trên hành trình thơ, Miên Trường chọn tâm thế nhập cuộc, cả thực và mơ đều không khoác lên chiếc áo lộng lẫy hay lời ru mị, không dệt nên cổ tích để cùng mơ mà chọn sự vừa đủ để gọi là nhiều và trọn vẹn:

Từ người bẻ nhớ làm đôi/ giấu vào bề bộn mùa trôi sóng chờ/… từ em mang nhớ ra hong/ dắt trang quá khứ đi vòng lối ai/… mùa em cổ tích thiếu thừa/ khoác tràn vai nắng đủ vừa chiêm bao/ người đi sỏi đá xanh xao/ em về ga cuối vẫy chào miền không” (Đủ vừa chiêm bao)

Với tập thơ này, Miên Trường đã tung tẩy hơn với chữ nghĩa, có những sáng tạo trong thi ảnh, gieo vần, đem lại lớp nghĩa mới cho từ ngữ:

Ừ thôi duyên nợ buộc ràng/ thương hoàng hôn cạn chiều dang dở từng”

“Từng tinh khôi – từng cùng ai/ và từng thương mãi những dài dặc đêm”

“Người từ nỗi nhớ cài then/ mười năm lận đận tình lem lấm buồn”…

Thường người khác hay viết “đầy tay”, Miên Trường dùng “gầy tay” lại hóa ra đắt trong ngữ cảnh:

Câu thơ em gãy – chùng chình từ say/ khát khao em hứng gầy tay” (Đôi lời với biển)

Nhiều người làm thơ về cúc họa mi, thơ Miên Trường về loài hoa này có những dấu ấn sáng tạo riêng khi sắc trắng được “dâng”, được “rót”:

Họa mi khép những cồn cào/ dâng vào trắng đến xôn xao đất trời/…bao nhiêu tinh khiết tảo tần/ rót vào trắng đến ngại ngần rằm hương” (Cúc họa mi)

Cũng nói về thân phận đàn bà, sự trớ trêu của tạo hóa, sự bạc bẽo của số phận, Miên Trường thấu cảm, bao dung:

Đổ thừa trăng chẳng chịu tròn/ đàn bà tôi những mỏi mòn bủa vây/ đàn bà em rút sợi ngày/ nối đêm vá mảnh chăn vay nhà người” (Tôi –em – đàn bà)

Rút sợi ngày nối đêm, để vá mảnh chăn vay, diễn đạt như thế là mới và lưu dấu trong tâm trí người đọc. Thôi thì thả tình cuối bến, về nương bậu cửa, tìm chút an yên.

Trên đường thiên lý, bước về phía mặt trời, thấy bóng mình, bóng người, tay níu cõi không, thấy lẽ vô thường hiện hữu:

Thấy người trong cõi mênh mông/ cúi chào nhau giữa tịnh không ngỡ ngàng/ xuống dòng một dấu chấm than/ có – không khép lại một trang viết mình” (Dấu chấm than)

Và ta nghe đâu đây có tiếng chuông chùa ngân lên, xoa dịu hết những nỗi niềm vọng động...

Quang cảnh buổi ra mắt tập thơ mới của Võ Miên Trường - Ảnh NH.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm