TIN TỨC

Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-04-16 20:10:14
mail facebook google pos stwis
1003 lượt xem

Nhà văn ĐỖ VIẾT NGHIỆM

Ngày 12/4/2024, Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh đã tổ chức buổi toạ đàm giới thiệu tác phẩm của Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng, hội viên Hội Nhà văn Thành phố. Tại buổi toạ đàm, có nhiều ý kiến, bài phát biểu tâm huyết và sâu sắc về các tác phẩm của ông. VNQĐ xin giới thiệu bài viết của Đại tá, nhà văn Đỗ Viết Nghiệm, một người đồng đội và đồng nghiệp của tác giả.

Tôi nhớ lần gặp đầu tiên với nhà văn Nguyễn Văn Hồng, tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội đại diện phía Nam, anh nói: “mình đã nghỉ hưu”. Nhìn anh tôi giật mình mới 50 tuổi, 30 tuổi quân, hàm đại tá, nguyên Sư đoàn trưởng 309 MT479, Quân khu 7; Phó hiệu trưởng trường sĩ quan lục quân 2; Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân đoàn 4... Vậy mà… Không lâu sau Nguyễn Văn Hồng viết văn, in sách. Năm 2000, anh xuất bản cuốn hồi kí đầu tiên Những năm tháng không quên và từ đây cứ sòn sòn như gà đẻ trứng, tới nay anh có trong tay 11 tác phẩm, gồm hồi kí, truyện kí và nhiều tiểu thuyết. Sách Nguyễn Văn Hồng viết ra được nhiều người đọc, được dựng thành phim. Năm 2024, Nguyễn Văn Hồng đón sinh nhật tuổi 80, anh gom hết in thành bộ ba tác phẩm: Tập 1: Qúa khứ còn đây; Tập 2: Chiến trường khốc liệt; Tập 3: Ai đã từng đi qua chiến trường K.

Thật khó đánh giá đầy đủ tác phẩm của nhà văn Nguyễn Văn Hồng cùng một lúc, tôi chỉ xin có một vài cảm nhận về những gì anh viết. Nó giống một bức tranh vẽ về một cánh đồng lúa chín vàng trước buổi bình minh, ở đấy không nhìn thấy một loài cây nào khác lẫn vào trong đó, câu chữ trung thực dồi dào nội tâm, đọc trang sách nào cảm giác như vẫn phảng phất mùi thuốc súng. Có thể dùng cách phô diễn ngôn từ kêu hơn, đẹp hơn nhưng Nguyễn Văn Hồng nhà văn phi hư cấu, thực ra tôi không muốn gọi như thế mà nôm na rằng “văn Nguyễn Văn Hồng viết không hề bịa”.


Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm phát biểu tại buổi toạ đàm. Ảnh: NGUYÊN HÙNG

Nguyễn Văn Hồng là người lính, lại là người lính có chức vụ cao từng là sư trưởng. Trong chiến tranh dưới trướng chỉ huy của anh có hàng ngàn quân, đó là lợi thế của người viết văn không cần đi tìm tư liệu. Trong tác phẩm Cuộc chiến tranh tự nguyện để chỉ cuộc chiến chống Mĩ, và Cuộc chiến tranh bắt buộc viết về cuộc chiến ở Chiến trường K đánh quân pôn pốt hình như khi viết nhà văn chỉ làm mỗi một việc nhớ lại nhặt ra, sắp xếp, liên kết rồi thêm nếm chút bối cảnh, thiên nhiên vào. Nói cách khác, Nguyễn Văn Hồng là cái kho tư liệu quý như vàng về đề tài chiến tranh. Kí ức vượt Trường Sơn vào Nam như còn y nguyên, như đoạn tả về đêm 16/3/1965, rời Quảng Bình vào Nam mà lòng tràn đầy lưu luyến: “chúng tôi đi theo lối mòn đoàn quân đi trước… đèo 1001 là thử thách đầu tiên… buổi sáng ăn cơm ở chân đèo phía Bắc, trưa ăn cơm nắm trên đỉnh đèo, chiều tối mới xuống được chân đèo phía Nam”. Ròng rã hai tháng trời hành quân mới vào tới chiến trường Khu 5, nhưng phải đối mặt với thiếu cơm, nhạt muối, muỗi rừng, vắt cắn, những cơn sốt ác tính từng cướp đi nhiều đồng đội nằm lại giữa rừng sâu.

Tôi và nhà văn Nguyễn Văn Hồng cũng có sự trùng hợp như thế, nhưng vào sau anh 3 năm, tới chiến trường B1. Hơn nửa thế kỉ trôi qua cảm xúc đó vẫn không hề thay đổi. Ở Khu 5 tôi là lính “cậu”, anh Nguyễn Văn Hồng là lính chiến ngoài mặt trận, vì thế anh kể trận đánh nào, xảy ra ở đâu tôi đều biết như cái “Dốc Lết” ở đồi núi huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Anh viết “Cái địa danh Dốc Lết không biết có tự lúc nào. Có lẽ do độ cao của dốc quá lớn, ai qua đây cũng phải bò, phải lết chăng? Hay là do quá trình càn quét của địch dai dẳng có những trung đội, đại đội lính Mĩ không chịu rút đi mà thường di chuyển ngắn lết đi lết lại, để ngăn chặn lực lượng ta xuống đồng bằng? Ở đây, người ta thường gọi lực lượng này là Mĩ lết”.


Đại tá, nhà văn Nguyễn Văn Hồng trong buổi toạ đàm về tác phẩm của ông. Ảnh: NGUYÊN HÙNG

Năm 1965 khi Mĩ đổ quân vào Việt Nam, kí ức của Nguyễn Văn Hồng trong trận đánh đầu tiên diệt gọn tiểu đoàn pháo binh Mĩ, khi ấy anh là chiến sĩ trinh sát dò gỡ mìn địch, đưa đội hình bộ binh ta lên chiếm lĩnh trận địa, trận đánh mở màn rất ác liệt: “tất cả hỏa lực của ta từ các hướng rót vào căn cứ địch, cả một tiểu đoàn pháo binh và lực lượng công binh Mỹ đóng trên đồi Xuân Sơn bị tê liệt, không kịp phản ứng”. Một đoạn khác: “… mùi tanh của máu, mùi khét của thịt cháy quyện vào nhau xộc vào mũi muốn ói mửa”. Tả lại hành động hi sinh anh dũng của một tiểu đội trưởng anh viết: “Anh Được leo lên khẩu pháo 155 mm, gần đến đầu nòng lại tuột xuống vì dầu mỡ và nước mưa. Anh leo lần thứ hai, khi toàn thân người tiểu đội trưởng nằm dài trên nòng pháo để đưa thuốc nổ vào, thì trúng một viên đạn lạc bất ngờ từ đâu đó bắn tới, rơi xuống”. Sự hi sinh anh dũng của người tiểu đội trưởng công binh làm Nguyễn Văn Hồng không thể nào quên: “khuôn mặt trái xoan, có nhiều vết lõm như là dấu tích của căn bệnh đậu mùa còn lưu lại”. Trong tác phẩm Cuộc chiến tranh bắt buộc, nhà văn Nguyễn Văn Hồng lí giải sâu sắc, cho ta thấy vì sao chúng ta phải cầm súng. Làm sáng tỏ điều ấy, chỉ viết dưới thể loại kí mới có sức thuyết phục cao. Cuộc chiến tranh bắt buộc là áng văn chính luận sắc bén, để tự vệ bảo vệ Tổ quốc mình từ xa. Đâu hiểu đơn giản chỉ là giúp bạn. Nó phản bác lại quan điểm sai trái, cho rằng Việt Nam vi phạm luật pháp quốc tế xâm lược Campuchia. Còn nhiều, nhiều nữa, được xem là những tư liệu quý về một trận đánh có vui có buồn, hay giá trị về mặt tư tưởng khoa học quân sự, chiến tranh cách mạng.


Đại diện Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh tặng hoa chúc mừng tác giả Nguyễn Văn Hồng. Ảnh: NGUYÊN HÙNG

Về tiểu thuyết, Nguyễn Văn Hồng có 5 cuốn và cả 5 đều viết về đề tài chiến tranh. Trong 5 tác phẩm có cuốn Đường 19 được tặng thưởng của Hội nhà văn Việt Nam, và Pailin thời máu lửa nhận giải thưởng Sông Mê Kông. Phải chăng sự hấp dẫn của văn Nguyễn Văn Hồng là những tư liệu quý về cuộc sống chiến đấu, cộng với lối viết giản dị không khoa trương bóng bẩy? Tác phẩm Pailin thời máu lửa là câu chuyện như vậy, chỉ có hai sự sắp đặt là mở đầu và kết thúc, bằng nhân vật có tên là Phearak con trai của người lính quân tình nguyện Việt Nam với cô gái Khơme Nari, qua lời kể của cựu binh Nguyễn Mộng Hùng đang có chuyến du lịch về chiến trường xưa ở Phnôm Pênh. Đoạn kết cho cuốn tiểu thuyết có hậu, Phearak tìm được cha mình, nhưng mẹ sinh ra Phearak là Bôpha em gái của Nari. Độc giả còn bất ngờ hơn khi Ngô Xuân Mạnh cha của Phearak không phải là trung đoàn trưởng trung đoàn 3, chỉ là một trinh sát viên quân báo trùng tên của tỉnh đội Bát Tam Băng.

Một người lính chiến máu lửa như Nguyễn Văn Hồng viết được như vậy là thành công. Những tác phẩm của anh đã gợi mở, khám phá cho những ai muốn tìm hiểu cuộc chiến tranh dưới góc nhìn phi hư cấu.

Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm