TIN TỨC

Những vần thơ vượt qua ranh giới

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
946 lượt xem

MAI VĂN PHẤN

Thơ buổi sáng là thi tập đầu tiên của Nguyễn Đức Tùng xuất bản tại Việt Nam (Nxb. Hội Nhà văn, 2023). Ông là nhà thơ đã ghi dấu ấn trên thi đàn từ những năm trước đây, với các cuốn sách Thơ đến từ đâu (Nxb. Lao Động, 2009), Đối thoại văn chương (Nxb. Tri thức, 2012), Thơ cần thiết cho ai (Nxb. Hội Nhà văn, 2015)...

Thơ Nguyễn Đức Tùng chứa nhiều không gian tiếp nối, đóng-mở bất ngờ, làm hiển lộ những vẻ đẹp thảng hoặc, miên viễn… Thi tập này phong phú và có nhiều điểm khác với những bài thơ của ông trước đây, cho tôi hình dung về một Nguyễn Đức Tùng ung dung, tự tin đến thảnh thơi, có lúc tạt vào những ngã rẽ bất ngờ. Ông đã xác lập ranh giới cho riêng mình và cũng là người vượt qua những ranh giới ấy.

Thơ Nguyễn Đức Tùng giàu có, phong phú một cõi sống, trong suốt những cõi yêu, sắc lạnh những cơn giận dữ, được viết bởi nhiều phong cách với lối kể chậm rãi, nhẹ nhàng và thường cố ý hạ giọng pha chút bông lơn khi đề cập đến những điều hệ trọng. Đó là giọng bình thản an nhiên mà thấu tận tâm can. “Một số người luôn đến đúng giờ/ Một số người thường xuyên lỗi hẹn/ Một số người mở vết thương ra/ Một số người khâu nó lại” (Đàn ông)

Hành trình trong mỗi bài thơ của Nguyễn Đức Tùng không chỉ đơn thuần là khoảnh khắc sống, dấu ấn tâm trạng, không chỉ là cái đẹp cho người đọc thưởng thức, mà nó thường đi, vượt, xuyên, trượt qua một hay nhiều ranh giới.

Ranh giới tự nhiên của nghệ thuật là ranh giới nhận thức của con người. Nghệ thuật cận đại thế kỷ XIX và hiện đại thế kỷ XX hầu như đã vượt qua mọi ranh giới của các loại hình, trong đó có thơ, để mạnh dạn đi đến những nơi mà trước đó chưa có ai vượt qua. Có nhiều ranh giới khác nhau trong nghệ thuật: ranh giới của thi pháp, phong cách, ranh giới thẩm mỹ... Đối với kẻ sáng tạo, những ranh giới ấy không bao giờ cố định, mà thay đổi, làm xuất hiện những quan niệm mới, vẫy gọi mới.

Nguyễn Đức Tùng là cây bút đa tài, tung hoành trong mọi thể loại, từ văn xuôi, dịch thuật đến thơ, phê bình. Ông là một trong số ít những tác giả hiếm khi phải “đi qua vùng tối” hoặc “chiếu nghỉ”, tức hiếm khi phải trải qua một giai đoạn ngừng viết, lắng lại để tích lũy, chiêm nghiệm. Dấu ấn thơ Nguyễn Đức Tùng là hành trình liên tục đi tìm cách viết mới, quan niệm mới. Có thể nói, thơ ông đã vượt qua nhiều ranh giới do chính ông tạo lập. Từ ranh giới ấy độc giả biết thêm nhiều quan niệm nghệ thuật khác, không gian khác nữa của ông.

Ranh giới tâm lý nói chung phụ thuộc vào giới hạn chịu đựng của mỗi cá thể. Sự vượt quá giới hạn tâm sinh lý thông thường của con người, nhưng tồn tại trong đời sống nghệ thuật lại phát sinh những chuyển dịch khác, hệ quả khác. “Mục đích của khăn tay/ Không phải để lau nước mắt/ Mà để chùi thật sạch/ Bia mộ trong cỏ xanh.” (Mục đích của áo quần)

Những ranh giới trong thơ Nguyễn Đức Tùng như cùng chung một áp lực, sức lan tỏa. Có thể là: “Một người đàn bà/ Đi sâu vào gương” (Trong tiệm hớt tóc). Là con ma của tình yêu: “khi tôi lái xe rất nhanh trong nỗi nhớ thầm/ nó xiết chặt thắt lưng an toàn của tôi lần nữa” (Con ma). Hoặc có khi ranh giới ấy chỉ là đường bay của một con muỗi lúc nửa đêm: “Kịp lặng lẽ đẻ trứng xuống/ Bể nước đầy cơn mưa cũ.” (Đêm ngủ trong chùa)

Tiêu đề bài thơ của Nguyễn Đức Tùng cũng là một ranh giới. Ông thường dùng những khẩu ngữ quen thuộc, dung dị như câu nói đời thường của bất kỳ ai: Chúng ta đã làm một lần; Em còn trẻ và em không thể biết; Nếu em muốn, thì anh cũng muốn. Đôi khi là câu nghi vấn: Chúng ta sẽ yêu nhau như thế này chăng; Tại sao chúng ta sống lại. Hay một mệnh lệnh thức: Hãy để chim chóc làm đầy bầu trời; Tắt hết đèn đi... Và lạ lùng hơn, nhiều khi ông đặt tiêu đề bài thơ như tên một bản thống kê, trần thuật: Một trăm việc bạn phải làm trước khi chết; Những hoàn cảnh khác nhau... Khi đọc vào nội dung những bài thơ của Nguyễn Đức Tùng, độc giả sẽ nhận ra những tiêu đề ấy chính là những lằn ranh mình vừa vượt qua.

Nguyễn Đức Tùng thường tạo ra thói quen để phá vỡ những thói quen, chủ ý mang tới sự  dung dị đời thường để bất chợt xuất hiện những biến ảo xuất thần. Thủ pháp này chỉ những tác giả có nội lực mạnh, thi pháp vững vàng mới có thể thực hiện thành công. Cách tạo ra những ranh giới nhiều khi được ông sử dụng để viết câu thơ đầu tiên trong bài. Những câu thơ dạng này đọc lên như người tung hỏa mù, đánh trống lảng, khiến ta ngỡ ngàng không biết nhà thơ sẽ nói gì, sẽ đưa đến đâu. “Tiếng cú rúc sân chùa/ Thằng bạn tôi gõ cửa bằng chân phải” (Chùa trên núi). Hay: “Tôi mang một loài hoa của làng tôi/ Đi suốt năm này qua năm khác/ Không còn ai biết” (Một loài hoa của làng tôi)

Những câu thơ trên là hình hài khoảng không, địa giới của phía bên này ranh giới mà tác giả chủ định đặt bầy. Không gian ấy vắng lặng, được nén chặt, cho tôi liên tưởng tới những khoảnh khắc trước trận chiến. Ngón tay của “người lính” nào đó đã đặt vào cò súng, viên đạn sẽ vọt khỏi nòng ngay tức khắc, hoặc mãi nằm yên.

Những bài thơ của Nguyễn Đức Tùng có thể xuất hiện những ranh giới khác nhau, tùy thuộc vào từng tình huống và câu chuyện được dẫn dắt. Tại những khổ thơ kết, Nguyễn Đức Tùng thường tạo ra những giới hạn để vượt qua. Trước một số khổ thơ kết, quả thực, có lúc tôi cũng thấy hơi sốt ruột bởi nhịp điệu chậm, giọng kể rề rà của tác giả, thí dụ: “Khi nửa đêm trời sao tối dần, sương mù/ Rơi lặng lẽ, bầy sếu bay qua/ Cất tiếng kêu, tiếng chúng không hay lắm/ Buồn rầu, cô quạnh, khàn khàn, xa vắng” (Chúng ta không cần phải đẹp lắm).

Nhưng tôi đọc tiếp và bắt gặp ánh chớp, sự va đập mạnh ở đoạn kết. Không ít lần tôi ngỡ ngàng tự hỏi, phải chăng tác giả đã bông đùa độc giả? Nhưng không, đó chính là thủ pháp độc đáo của ông.

Vì đã hiểu Nguyễn Đức Tùng và thủ pháp này, nên tôi thường bình tĩnh lắng nghe hết những câu chuyện ông kể. Đây là chuyện nhà thơ đi tìm người thợ may để lấy chiếc áo mà anh trai ông đã đặt. Và nhà thơ đã mang đến điều bất ngờ. “Tôi mặc chiếc áo vào người/ Bước đi trên mặt nước xanh trong” (Chiếc áo). Hay, câu chuyện lạ lùng trong bài thơ “Nếu bạn có một trái tim”. Một trái tim khổ đau đã khô cứng như đá đặt ở góc vườn. Rồi một hôm tác giả trở lại góc vườn xưa, gặp bức tượng Phật mỉm cười. “Bằng đồng, khô, cứng, đen, lạnh toát/ Chỉ lúc đêm về mới ướt sương”.

Nguyễn Đức Tùng đã đưa độc giả đi xa hơn những giới hạn tưởng tượng, biến những bình dị đời thường thành phi thường, thậm chí đó là những điều phi lý mà ta vẫn có thể chấp nhận được. Trong vùng mờ của ranh giới này, những thi ảnh như được thoát xác khỏi câu chữ và tiêu dao trong một đời sống khác.

Cách tác giả vượt qua những giới hạn này gợi cho tôi tưởng tượng Nguyễn Đức Tùng giống như một con cá sấu nhịn thở hàng giờ dưới nước, nằm bất động để dụ những con mồi đến gần. Thủ pháp này được nhà thơ sử dụng rõ nét nhất trong bài thơ Con mèo. Bài thơ không dài, nguyên văn như sau:

Trước rạng đông

Người đàn ông bị dẫn tới

Chân tường, hay tay trói giật lại

 

Con mèo chạy theo chủ

Bị tóm cổ ném vào đám người

Nhưng nó nhìn thấy

Từ chân trời đám mây đen kéo tới

 

Mới đầu: một chấm. Như khăn bịt mặt

Giữa trời bao la, lớn dần

Sắp quét sạch mọi điều, máu và nước tiểu

Nó câm bặt, móng bám chặt vào mặt đất

 

Suốt ba ngày cho đến khi người đàn ông sống lại.

 

Ba khổ thơ đầu để dẫn chuyện, một con mèo trung thành với chủ của nó như bao con mèo khác. Hành động câu chuyện diễn ra tuần tự, đơn tuyến, ai cũng đoán được. Tôi liên tưởng cả ba khổ thơ này như con cá sấu nằm giả chết. Nhưng câu kết bài thơ xuất hiện tựa tiếng nổ lớn. “Suốt ba ngày cho đến khi người đàn ông sống lại.” Ở đây, “con cá sấu” đã bất ngờ đớp trọn con mồi. Tác giả đã cho “người đàn ông sống lại” sau ba ngày cùng con mèo, làm tôi liên tưởng đến sự phục sinh mầu nhiệm của Chúa Giê-su, một tín lý quan trọng trong Ki-tô giáo.

Trong thơ Nguyễn Đức Tùng, ranh giới giữa thơ và phi thơ được thể hiện rõ nét trong những bài thơ ba câu (mà ông gọi Haiku). Trong thể thơ tối giản này, thời gian để nhân vật tái sinh, thăng hoa, hoặc biến hình chỉ trong chớp mắt. Giống như khi ta nghe tiếng súng nổ mà không thể nhìn thấy đường đi của viên đạn đã đến đích. Cuối năm: Treo bức ảnh của cha/ Lên tường/ Miệng ngậm cái đinh. “Trong phòng nhổ răng”: Người nha sĩ/ Xoay mặt tôi/ Về phía rừng thu.

Câu kết của hai bài thơ trên đều là những cái đích chờ sẵn, để từ đó không gian khác được mở ra, thần thái bài thơ được hiển lộ. Mọi ngôn từ của hai bài thơ đều ở bên này lằn ranh, đều đứng ở vạch xuất phát để nhường chỗ hoặc chờ đợi những xung động nơi người đọc khi bài thơ kết thúc. “Miệng ngậm cái đinh” và “Về phía rừng thu” là trạng thái đóng chuyển thành mở, hữu hạn hóa thành vô hạn. Là hạt giống được gieo, sinh trưởng.

Tiết tấu để hình thành những ranh giới trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường chậm, thể hiện rõ nhất trong những bài thơ ngắn, tự do. Nhưng trong trường ca, ông tạo ra giọng điệu khác hẳn, gấp gáp, gây áp lực và đẩy mọi chuyển động đi rất nhanh. Ông viết nhiều trường ca, nhưng chọn Bài tiễn biệt thi sĩ để in trong thi tập này. Từ khổ thơ đầu đến kết thúc trường ca là dòng thác đổ xuống liên tục, mạnh mẽ. Những câu thơ vụt hiện như cả đoàn quân chuyển động gấp mà không biết “dự lệnh”, “động lệnh” từ đâu. “Từ trong vùng tối/ Sương mù bay đầy trời/ Anh Du Tử Lê vừa mất/ Sau những ngày thật im lặng/ Điện thoại sáng lên như vầng trăng/ Dưới gối/ Gọi người về”.

Đây là bản giao hưởng thơ. Tính xung đột, tính kịch không nằm trong kết cấu trường ca, không trong lời thoại của các nhân vật mà được thể hiện trong số phận chìm nổi của họ. Những gương mặt đã làm nên diện mạo văn học Việt Nam trong hơn thế kỷ qua như lần lượt vụt hiện qua sân khấu. Những nhân ảnh thấp thoáng, ấn tượng, sáng rõ, mờ nhòe... “Hà Nội phải nhìn từ phía ấy/ Như Mai Thảo nhìn từ trên xuống”; “Khói thuốc lào xanh chiều nghiêng đổ/ Lã chã mưa dầm/ Gác Hoàng Cầm/ Nối ruồi son thánh thót”; “Hoàng Ngọc Hiến bảo: anh cứ mê chuyến đi Bắc Ninh của anh em mình quá “...

Trường ca Bài tiễn biệt thi sĩ là cuộc đưa tiễn mà cũng là chào đón thi sĩ Du Tử Lê về với vĩnh hằng bằng trùng trùng những lớp sóng gối lên nhau. Tác giả không dừng lại ở sự kiện, chi tiết từng nhân vật, từng trường đoạn mà để cảm xúc cuốn các thi ảnh đi nhanh. Trường ca chuyển động theo dòng ý thức, nương theo đời sống nội tâm, những liên tưởng tự do bất chợt vụt hiện cùng cảm xúc của người viết. Tác giả đào sâu vào tiềm thức các nhân vật trôi nổi theo dòng ấn tượng, cho họ bộc lộ nỗi ám ảnh, sợ hãi, lầm lẫn, những dằn vặt, tự vấn... Vẫn là những kết cấu phần mảnh, nhưng trường ca được “phong kín” bằng cảm xúc mạnh, liên tục, nhất quán, đưa người đọc vào một không - thời gian đa chiều, gợi những liên tưởng cứ chợt đến chợt đi, từ hữu hạn chuyển sang vô hạn.

Thơ Nguyễn Đức Tùng chuyển động theo hai hướng: truyền thống và hiện đại. Những bài thơ ông viết theo phong cách truyền thống tuy hình ảnh mới lạ, tràn đầy xúc cảm, nhưng nhịp điệu đôi lúc quen thuộc, lối dẫn dụ câu chuyện cũng không mới. Tôi yêu thích những bài thơ theo phong cách hiện đại của ông hơn và chờ đợi những tác phẩm của ông nối tiếp khuynh hướng này. Cả hai khuynh hướng ông viết đều giản dị, có lẽ càng giản dị thơ ông càng hay, càng ám ảnh. Nguyễn Đức Tùng là người thường xuyên tiếp xúc với văn hóa phương Tây, am tường văn học phương Tây, nhưng dường như ông không bị chi phối, ảnh hưởng bởi bất kỳ khuynh hướng nào. Đôi khi ông sử dụng thủ pháp diễu nhại, phần mảnh của trào lưu hậu hiện đại, nhưng vẫn mang phong cách riêng. Những câu thơ sau đây buông thả tự nhiên nhưng hiển lộ sự uyên bác, hóm hỉnh của riêng ông. “Ghé tai anh, ông nói thầm/ Còn kiếp trước tôi là con chuột/ Anh mua cho ông một cái bánh ngọt/ Croissant” (Ở Paris)

Hình ảnh trong thơ Nguyễn Đức Tùng thường duyên dáng, mang nét đẹp truyền thống. Một số bài thơ của ông vang vọng như những bản tình ca. Tôi thực sự yêu thích những câu thơ như: “Hoa cúi mình đợi gió/ Đất cúi mình chờ em” (Nếu em muốn, thì anh cũng muốn); “Anh nhớ em nằm trên thảm ấm/  Anh nhớ em quần lót vướng gót chân” (Đời là thế đó).

Một ranh giới khác mà thơ Nguyễn Đức Tùng đã vượt qua là ranh giới của sự giản dị. Tôi muốn nói đến tiêu đề tập thơ này của ông: Thơ buổi sáng. “Buổi sáng” ở đây được hiểu là khởi đầu của ngày mới, là buổi bình minh, sự mới mẻ, khai sáng, nó đến và đi theo quy luật tất yếu. Nhưng khái niệm ấy đi liền với thơ, biến thành thơ, tự nhiên tựa hơi thở, khí trời thì lại là điều phi thường. Với cá nhân tôi, đây là cách đặt tiêu đề cho một tập thơ của thi sĩ đã chạm đích. 

Nguyễn Đức Tùng viết tập thơ này trong và cho buổi sáng hôm nay. Phía trước nhà thơ còn nhiều buổi bình minh thơ nữa, dĩ nhiên vậy. Trong thi tập này tôi hầu như không thấy bài thơ nào xuống sức. Nhà thơ của chúng ta đang ở độ chín và sung mãn. Vậy liệu có ai đoán được ranh giới của Thơ buổi sáng tiếp theo của ông không?

Nguồn: Văn nghệ số 11/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm