TIN TỨC

Nỗi buồn trổ bông và tình mẹ trong thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-08-24 11:37:50
mail facebook google pos stwis
1125 lượt xem

Nguyễn Quế

Nguyễn Minh Ngọc Hà sinh năm 1985 tại vùng đất An Sơn thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Nơi đây vốn là chiến khu cách mạng hào hùng trong hai cuộc kháng chiến và là một phần của Vườn trái cây đặc sản Lái Thiêu nổi tiếng. Có lẽ đặc điểm, truyền thống quê hương đã sớm chắp cánh cho hồn thơ của chị. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trong đầu cô cựu học sinh lớp chuyên toán của trường trung học phổ thông chuyên Hùng Vương luôn phảng phất âm điệu của thi ca. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh rồi vào làm việc tại một ngân hàng lớn chưa bao lâu, như duyên phận đã định trước, Nguyễn Minh Ngọc Hà “rẽ bước”, chọn nghề tự do để có thời gian dành cho văn chương nghệ thuật.

 

Ngoài hai tập thơ viết riêng đã in (Đắng - 2018 và Nỗi buồn trổ hoa - 2020, do Nhà xuất bản Văn học ẩn hành), chị còn là đồng tác giả của 12 tuyển tập thơ được bạn đọc yêu thích. Bài thơ Bảy sắc cầu vồng của chị được chọn in trong sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, tập 2 (Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) là phần thưởng xứng đáng cho những nỗ lực của chị. Ngoài thơ, Nguyễn Minh Ngọc Hà còn nặng lòng với sân khấu. Chị là chủ nhân của gần 30 giải thưởng trên các lĩnh vực sáng tác, tiêu biểu là Giải Nhất chuyên ngành thơ Cuộc thi sáng tác VHNT “Đất và người Bình Dương” năm 2021. Chị hiện là Ủy viên Ban Điều hành phân hội văn học thuộc Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Bình Dương.

Thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà bắt rễ từ hai nguồn cảm xúc chính: Mẹ và tình yêu. Thơ tình của chị thường mang nỗi buồn da diết. Cầm trên tay các tác phẩm chị tặng, tôi cảm thấy bồi hồi, xao xuyến khi bắt gặp những tiếng lòng đầy hoài niệm:

“Người ngồi xuống đời ta như giấc mộng

 Ngỡ xa xăm nhưng bỗng chốc thật gần

 Nơi mạch máu hồi sinh niềm khát vọng

 Trái tim cằn bung nở đóa hoa xuân”

 (“Ngồi lại bên đời” – Nỗi buồn trổ hoa) 

Hay những câu thơ “tình nhẹ nhàng, tứ xa vắng” như:

“Tôi nhặt lá gom lại chiều hạ cũ

 Hứng tiếng ve trên mấy nhánh phượng già

 Kỷ ức xưa tưởng chừng như yên ngủ

 Bỗng hiện về như vừa mới hôm qua”

 (“Chiều hạ cũ”- Đắng)

Những câu thơ mang tâm trạng trắc ẩn ấy đã cuốn hút tôi. Tuy vậy, khi tìm hiểu kỹ hơn thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà, tôi nhận ra những vần thơ viết về mẹ mới là tiếng lòng sâu lắng nhất của chị. Bên cạnh những tác phẩm đã in sách, chị tiếp tục  cho ra đời những bài mới khá thành công. Hình ảnh người mẹ hiện hữu trong thơ chị thật bình dị nhưng cũng rất cao đẹp:

“Sen hồng

 gói nắng

 ủ sương

 thơm trong gió

 một làn hương dịu dàng”

 (Mẹ và sen)

Có gì ý nghĩa hơn khi ta so sánh mẹ với hình ảnh hoa sen? Và hạnh phúc thay,  khi ta được hưởng niềm hạnh phúc bao la từ lời ru của mẹ. Những trưa hè nóng bỏng hay những đêm đông giá lạnh, tiếng à ơi cất lên cùng với mùi thơm sữa lan tỏa từ bầu ngực trẻ, nơi có trái tim nặng tình yêu thương của mẹ, hòa với tiếng nôi đưa kẽo cà kẽo kẹt dẫn ta vào giấc ngủ thần tiên. Qua những lời ru, mẹ thổi vào trong ta hồn thiêng đất nước cùng tình yêu bao la trước cuộc sống, hoặc có khi đó là một thế giới như thực như mộng và những giấc mơ tuyệt đẹp đầu đời. Cũng như bao người khác, trong trái tim Nguyễn Minh Ngọc Hà, hình ảnh thân thương của mẹ luôn gắn liền với những lời ru tha thiết buổi ấu thơ. Niềm hạnh phúc to lớn ấy không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng nữ nhà thơ:

“Ngọt ngào giấc ngủ đầu nôi

  Dịu dàng giọng hát “à ơi” mẹ hiền”

  (Mẹ)

Trong tâm tưởng của một người con hiếu thảo, Nguyễn Minh Ngọc Hà trân quý biết bao mối quan hệ máu thịt thiêng liêng và hình ảnh thân thương của những người sinh thành, nuôi dưỡng mình:

“Con lớn khôn theo từng lời ru mẹ

 Êm tiếng võng đưa kẽo kẹt của bà

Vai mẹ mỏi từ độ còn son trẻ

 Lưng sớm còng bởi quang gánh đường xa”

 (Lời ru quằn vai mẹ)

Hình như lúc nào nhắc tới người mẹ yêu kính, bên cạnh sự biết ơn sâu sắc công lao của mẹ, trái tim Nguyễn Minh Ngọc Hà cũng quặn đau trước sự vất vả, hy sinh mẹ phải gánh gồng. Trong tâm tưởng chị, nỗi vất vả, hy sinh ấy thật bền bỉ và to lớn:

“Cả đời che nắng chắn mưa

 Tháng năm dầu dãi, bốn mùa phong sương

 Mẹ dành trọn vẹn tình thương

  Đạp lên đá sỏi, lát đường con đi

 

  Tuổi xuân mẹ có tiếc gì

  Hy sinh tất cả cũng vì đàn con

  Dáng mẹ ngày một hẻo hon

 Chỉ mong con được vuông tròn tương lai”

  (Mẹ)

Tác giả Nguyễn Minh Ngọc Hà

 Ngay cả những khi tưởng nhớ người mẹ hiền với những hình ảnh đẹp đẽ cùng niềm tự hào to lớn nhất, chị vẫn không khỏi xót xa trước quãng đời lam lũ, vất vả của mẹ:

“Đời sen như mẹ gian nan

 tháng năm quanh quẩn

 ao làng ruộng quê

      

Mẹ ta đội chiếc nón mê

 nắng chang

mưa dội

đường về thêm xa

áo tơi che tấm thân già

làm bóng mát

che con qua nhọc nhằn”

 (Mẹ và sen)

 Rồi một ngày, khi phải lìa xa bàn tay yêu thương của mẹ để đi vào biển đời rộng lớn, chị càng cảm nhận sâu sắc nỗi lòng của mẹ và lưu giữ mãi hình ảnh mẹ lúc chia ly:

“Đò đưa con qua sông

 Ngược dòng trôi về phố

 Nước mắt mẹ lưng tròng

 Chưa xa mà đã nhớ”

Càng thấu hiểu tình cảm bao la cùng sự tần tảo, hy sinh của mẹ, chị lại càng trăn trở, băn khoăn:

“Con đi tìm tri thức

 Trên tay mẹ chai sần

 Con ấm chăn trước ngực

 Mẹ thêm nhiều nếp nhăn”

 (Con đò của mẹ)

Mỗi khi nghĩ tới tương lai tươi đẹp phía trước, chị lại cảm nhận sâu sắc công ơn của mẹ. Sau bao tháng ngày đi tìm hạnh phúc, chị mới vỡ lẽ, niềm hạnh phúc to lớn nhất của đời mình chính là được mẹ che chở, thương yêu:

“Đường con đi rộng thênh thang tương lai

 đường của mẹ gập ghềnh bao khó nhọc

 con mải miết kiếm tìm hạnh phúc

đâu hay rằng hạnh phúc ở sau lưng”

 (Mẹ)

Thương mẹ lưng ngày một còng thêm, những người thân trong gia đình nữ nhà thơ - mà chắc chị là một trong những người tích cực nhất - đã có những việc làm đầy tính nhân văn: Hạ lần bậc cửa để mẹ khỏi bước hụt. Nhắc tới sự việc này, Nguyễn Minh Ngọc Hà đã bộc bạch nỗi niềm của mình qua những câu thơ bình dị nhưng đầy xúc cảm:

 “Nhà mình mấy lần thay bậc cửa

  Đến hôm nay bậc cửa cũng chẳng còn

  Sàn nhà bằng mặt sân

 Tránh cho mẹ thêm lần bước hụt”

  (Dáng hình mẹ thân thương)

   Với trái tim giàu yêu thương, xúc động và đầy nhạy cảm của người phụ nữ, chị  đau đớn biết bao khi cảm nhận những điều không mong muốn đang ngày một đến gần:

“Thời gian rụng đầy tay

 cho hơi thở mẹ dần ngắn lại

 mỗi sáng mai ít thêm lần người dậy

 lá vàng rơi kín mặt sân buồn”

   Với quy luật khắc nghiệt của tự nhiên, ngày không mong đợi ấy cuối cùng cũng  sẽ đến. Thật cảm động khi ta đọc những câu thơ mang tâm trạng đau thương của tác giả:

 “Hối hả trở về trong nhói buốt hoàng hôn

  sau tin nhắn “Mẹ đang chờ” như sét đánh

  hành lý mang theo là trái tim ân hận

 trên chuyến bay dài nhất cuộc đời

 

“Con đã về bên mẹ, mẹ ơi”

 khán giọng gọi nhưng không lời đáp lại

 căn nhà rồi lặng im mãi mãi

 mắt ta nhòe hay trời đổ mưa bay?”

 (Chuyến bay dài nhất cuộc đời)

Đọc những bài thơ viết về mẹ của Nguyễn Minh Ngọc Hà, ta cảm thấy trân quý biết bao tình cảm dạt dào, sâu lắng của một người con giàu lòng yêu thương và hiểu thảo. Những tiếng lòng của chị được biểu đạt qua nhiều cung bậc cảm xúc với những bối cảnh khác nhau nhưng đó luôn là nỗi niềm sâu nặng của tình mẫu tử thiêng liêng, làm rung động trái tim người đọc.

Bên cạnh tình cảm dành cho người mẹ đẻ, trái tim Nguyễn Minh Ngọc Hà luôn hướng về những bà mẹ đã đóng góp, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc. Đó là những người mẹ cụ thể, bằng xương bằng thịt chị may mắn được gặp trong đời nhưng cũng là người mẹ Việt Nam nói chung mà chị trân trọng gọi bằng chữ viết hoa. Chị cảm phục biết bao trước những tấm gương cao đẹp ấy:                                 

“Như thân tằm rút ruột nhả tơ

 Mẹ rứt ruột mình hiến dâng cho đất nước

 Lớp lớp máu xương tạc nên dáng hình Tổ quốc

Có máu xương chồng và những đứa con”

Tháng Bảy tri ân, về bên mẹ, nghe mẹ kể về những năm tháng khói lửa đạn bom, lội suối băng rừng tải đạn, tiếp lương cho bộ đội, đào hầm bí mật nuôi dấu cán bộ, bất chấp gian khổ, hiểm nguy, chong đèn thức thâu đêm canh từng giấc ngủ cho các anh, bị địch bắt tra tấn dã man vẫn xem thường đòn roi và các thủ đoạn tàn bạo của kẻ thù, một lòng trung kiên với cách mạng, chị rất khâm phục và càng thêm kính yêu mẹ. Nhưng với trái tim đầy nhạy cảm và sự thấu hiểu sâu sắc tấm lòng cao cả cùng tình cảm bao la của mẹ, chị biết còn những điều sâu xa mẹ còn giữ lại trong lòng. Chị không nỡ khơi sâu nỗi niềm của mẹ và cảm thấy ray rứt trong tâm:

“Mẹ ơi, sao không kể nhiều hơn?

Những lần khóc tang chồng, khóc tang con

 hay một cánh tay Mẹ gửi lại trên dòng sông ngày ấy

 Bao chiến công lừng lẫy

 Bao tàn khuya bốn bề vắng im Mẹ đau lòng đến vậy

 Nước mắt Mẹ chảy nhiều hơn mưa ngâu tháng Bảy

 Sao không kể Mẹ ơi?!”

(Những điều Mẹ chưa kể)

Qua những câu thơ trên đây, hình ảnh người Mẹ chiến sỹ, người Mẹ Việt Nam hiện lên trước mắt ta thật cao đẹp. Tình cảm tác giả dành cho Mẹ cũng rất đáng được trân trọng, và chính điều đó đã góp phần nâng tầm giá trị của bài thơ, làm cho thơ chị có sức lan tỏa rộng rãi hơn.

Thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà nói chung và các tác phẩm chị viết về mẹ nói riêng  luôn là sự biểu đạt chân thực cảm xúc của chị. Những rung động dạt dào, sâu lắng  trước những con người và cuộc sống mến thương là mạch nguồn nuôi dưỡng hồn thơ chị, đồng thời là điểm tựa để thơ chị cất tiếng giữa cuộc đời tươi đẹp nhưng vẫn còn nhiều vất vả, lo toan.  

Đề tài trong thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà không mới nhưng đọc giả yêu thích thơ chị vì họ có thể tìm thấy sự đồng cảm, đồng điệu trong từng câu thơ của nữ tác giả trẻ. Tuy nhiên, bên cạnh những câu thơ hay, thỉnh thoảng thơ chị còn có những câu, chữ chưa thật thanh thoát. Dù sao, với những gì Nguyễn Minh Ngọc Hà đã có được cùng tình yêu chị dành cho thơ ca, chúng ta có thể tin rằng, chị sẽ còn nhiều tiềm lực để vững bước trên con đường nghệ thuật của mình.

N.Q

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm