TIN TỨC

Nỗi lòng Huyền Trân - Tản văn Nguyễn Linh Giang

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-11-26 11:38:23
mail facebook google pos stwis
2006 lượt xem

Trên đường thiên lý Bắc- Nam, đoạn Quốc lộ 1 giao nhau với Quốc lộ 9 đi về hướng Cửa Việt (tỉnh Quảng Trị), có một bảng chỉ dẫn: “Miếu thờ bà Huyền Trân Công Chúa 500 mét”.

Ảnh Công chúa Huyền Trân trong tâm thức của người Việt

Trên đường thiên lý Bắc- Nam, đoạn Quốc lộ 1 giao nhau với Quốc lộ 9 đi về hướng Cửa Việt (tỉnh Quảng Trị), có một bảng chỉ dẫn: “Miếu thờ bà Huyền Trân Công Chúa 500 mét”. Một đoạn đường ngắn từ ngã ba Quốc lộ 9 đi vào, có nhiều ngôi nhà thờ họ quy mô và cổ kính, nhưng không biết miếu thờ Huyền Trân ở đâu. Đành phải hỏi thăm vậy! Và rồi, ở xóm Chùa, làng Kim Đâu, xã Cam An, huyện Cam Lộ, Quảng Trị- nằm ven bờ phía bắc Bàu Đá là miếu thờ công chúa Huyền Trân nhỏ bé, khiêm nhường. Theo sử sách, năm 1306, công chúa Huyền Trân vâng lệnh vua cha Trần Nhân Tông đi lấy vua Chiêm là Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Tương truyền, đoàn tùy tùng của công chúa Huyền Trân đã dừng lại ở đây, nơi cực nam của Đại Việt, trước khi hành trình tiếp vào đất Chiêm Thành.

Sách “Khâm Định Việt sử thông giám cương mục”, ghi: “Bính Ngọ, năm thứ 14 (1306). Tháng 6, mùa hạ. Gả Huyền Trân công chúa cho Vua Chiêm Thành là Chế Mân, Chế Mân đem dâng đất châu Ô và châu Lý. Trước đây, Thượng hoàng đi du lịch đến một địa phương, nhân tiện sang chơi Chiêm Thành, hẹn gả con gái cho chúa Chiêm. Sau Chế Mân sai bầy tôi là bọn Chế Bồ Đài đệ tờ biểu dâng vàng, bạc, kỳ hương và các vật phẩm lạ để xin cưới. Quần thần trong triều đều nói là không nên gả, chỉ có Văn Túc vương Đào Thái chủ trương nên gả và Trần Khắc Chung tán thành. Chế Mân lại xin đem châu Ô, châu Lý để làm lễ cưới, lúc ấy ý vua mới quả quyết cho Huyền Trân công chúa về với vua Chiêm”.

Sử sách chỉ ghi mấy dòng như thế nhưng bao nhiêu nỗi niềm còn âm vọng qua trùng điệp thời gian. Cái ngày mùa hạ cách đây 710 năm, đoàn ngựa kiệu đưa Huyền Trân từ Thăng Long vào đất Chiêm Thành đã dừng ở bến sông này. Sông xưa, qua bao biến đổi bể dâu, giờ chỉ còn là bàu nước cạn. Ông Hà Xuân Anh, sinh năm 1950, người đã hơn 30 năm trông coi, hương khói miếu thờ Huyền Trân, cho biết: Theo lời kể của các bô lão làng Kim Đâu thì miếu thờ công chúa Huyền Trân có cách đây gần 700 năm, sau khi công chúa xuống thuyền vào đất Chiêm. Miếu ngày xưa rất to, xây bằng gạch theo lối vòm cuốn thành ba tầng, mái lợp ngói liệt có đường cổ diêm; trước miếu có tam quan, sân gạch; trước nữa là một con đường rợp tre trúc, ngoài kia là bến sông... Miếu thờ đó đã bị bom đạn thời chiến tranh phá hủy. Ông Nguyễn Văn Thảo, trưởng thôn Kim Đâu, cung cấp thêm cho chúng tôi thông tin: năm 1978, dân làng Kim Đâu góp sức xây dựng lại ngôi miếu thờ, chỉ là một nơi để hương khói, thờ phụng, đơn sơ mộc mạc. Năm 2009, ngôi miếu bị xuống cấp. Năm 2010, nhân một chuyến vào công tác tại Quảng Trị, khi về thăm miếu Huyền Trân công chúa, ông Hồ Nghĩa Dũng, Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải lúc bấy giờ đã kêu gọi các đơn vị trong ngành giao thông vận tải quyên góp, xây dựng lại miếu như ngày nay. Ngôi miếu nhỏ bé, đơn sơ trên khuôn viên rộng chỉ vài trăm mét vuông, lát gạch Bát Tràng, có thành xây quanh, cửa vào bỏ ngỏ, có bình phong lớn đắp lân. Ông Hà Xuân Anh nói với tôi với vẻ thành kính: Hàng năm, dòng họ Trần ngoài Bắc đều vào đây thăm và cúng lễ, nhất là vào dịp giỗ bà Huyền Trân, nhằm ngày 24/11 âm lịch.

Có điều thú vị, đối diện bên kia Bàu Đá, đối xứng với miếu thờ Huyền Trân công chúa là một cái giếng Chăm rất đẹp, với những thanh đá được đục mộng lắp ghép như hàng mộc. Giếng Chăm vẫn còn được lưu giữ cùng với miếu thờ Huyền Trân như chứng tích tấm lòng của công chúa vương triều Đại Việt với đất Chiêm Thành. Đây là dấu tích thể hiện sự giao thoa, tiếp biến văn hóa Chăm Pa- Đại Việt trong quá trình phát triển của lịch sử mảnh đất này.

Huyền Trân công chúa về nhà chồng cũng là lúc hai châu Ô, Lý được sáp nhập vào lãnh thổ quốc gia Đại Việt. Địa giới hành chính hai châu được hoạch định từ Cửa Việt (phần phía nam của tỉnh Quảng Trị ngày nay) đến tận tỉnh Quảng Nam. Sau này, vùng đất hai châu Ô, Lý được đổi tên thành hai châu Thuận, Hóa. Tương truyền, sau khi dừng chân ở vùng đất phía nam của Đại Việt, công chúa Huyền Trân xuống thuyền ở sông Cam Lộ, theo đường thủy đi ra Cửa Việt vào nam. Từ đó, sông Cam Lộ được đổi tên thành sông Hiếu để ghi nhận tấm lòng hiếu nghĩa của công chúa Huyền Trân...

Trời chiều cuối năm, mưa lây phây, gió lạnh. Tôi vào miếu thắp hương vọng tưởng công chúa Huyền Trân, rồi ra đứng ở bậc thềm bên Bàu Đá và tự hỏi: Một ngày mùa hạ cách đây 710 năm, lúc dừng lại ở đây, trước khi về nhà chồng, chắc Huyền Trân công chúa cũng đã có những buổi chiều đứng lặng bên dòng nước này? Người đời đã ghi công sự hy sinh lớn lao của nàng: “Hai châu Ô, Lý vuông nghìn dặm/ Một gái thuyền quyên đáng mấy mươi”. Còn nàng, nàng nghĩ gì, hỡi Huyền Trân? “Vì lợi cho dân/ Tình đem lại mà cân”! Trong sương chiều bảng lảng mặt nước Bàu Đá, tôi như nghe thổn thức điệu Nam bình: “Nước non ngàn dặm ra đi/ Mối tình chi/ Mượn màu son phấn/ Đền nợ Ô, Ly/ Xót thay vì/ Đương độ xuân thì/ Số lao đao hay duyên nợ gì?”.

                                                   Quảng Trị, năm Bính Thân 2016.

Nguyễn Linh Giang

Bài viết liên quan

Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
ời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm
Trở lại xứ sở Chùa Vàng
Ba thập kỷ sau, tôi trở lại Thái Lan không chỉ với tư cách du khách, mà còn là người kết nối văn hóa giữa hai dân tộc Việt – Thái, vốn có nhiều “mẫu số chung” về phong tục, tập quán và tôn giáo.
Xem thêm
Chuyện tình trắc trở của hai nghệ sĩ nổi tiếng quê Quảng Trị
Nhân đọc tập bút ký: “Đời như tiểu thuyết” của Trương Đức Minh Tứ
Xem thêm
Cả một trời thương - Tản văn Vừ Thị Mai Hương
Đến Hà Giang, bạn sẽ thấy. Hà Giang đẹp trong veo như nắng sớm bản Phùng, hiên ngang kiên cường như đá núi Đồng Văn và dịu dàng như ánh chiều rơi trên dòng Nho Quế. Hà Giang, như một nàng tiên bí ẩn mà cả đời bạn sẽ không bao giờ hiểu được hết, sẽ không bao giờ đi được đến tận cùng.
Xem thêm
Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh
“Hậu Sơn Tinh, Thủy Tinh” – bài phiếm đàm của Phạm Minh Mẫn, từ một truyền thuyết quen thuộc, đã mở ra nhiều liên tưởng bất ngờ.
Xem thêm
Khát vọng hòa bình – Ký của Nguyễn Minh Ngọc
Từ một nữ sinh Châu Sa giàu nghị lực đến vị Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng lâm thời, rồi Phó Chủ tịch nước, cuộc đời bà là bản hùng ca về trí tuệ, bản lĩnh và khát vọng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Xem thêm
Văn hóa công trình
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 34 (3417) ra thứ bảy ngày 23/8/2025.
Xem thêm
Tổ quốc trên hết
Tùy bút của Đại tá, nhà thơ TRẦN THẾ TUYỂN
Xem thêm