TIN TỨC

Phạm Trung Tín và đường chân trời

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-11 07:38:32
mail facebook google pos stwis
2341 lượt xem

ĐẶNG NGUYỆT ANH

Một buổi sáng trời mưa gió, cách đây vài tuần. Phạm Trung Tín phóng xe máy đến nhà tôi. Tôi vội hỏi “Có việc gì vậy”. “ Dạ, em đã hẹn với chị rồi, em phải đến. Tên em là Tín mà”. Thì ra, một cái tên định mệnh! Tín là phải giữ chữ Tín với mọi người.

Tuổi trẻ gặp thời binh lửa, anh đã cầm súng ra đi, cùng với lớp trai lên đường cứu nước. Rời binh nghiệp, anh tiếp tục học hành. Kết quả: hai bằng cử nhân triết học và kinh tế. Đây là sự phấn đấu đáng ghi nhận.

Là một người sống chân thật, mộc mạc và nhân hậu ”Răn mình nét ở nết ăn” sao cho phải Đạo. “Buộc đời bằng sợi văn chương”. Đường chân trời là tập thơ thứ 5 của anh. Năm tập thơ là sự cố gắng, đam mê, cần mẫn. Nhất là thời buổi phải bỏ tiền túi ra mà in thơ ! Anh vẫn hiểu “Đời Văn đôi lúc trái ngang”. Nhớ đến thi tài, mệnh bạc của Thi sỹ họ Hàn: ”Trường thơ loạn giữa đất trời. Từng câu máu ứa cho đời tinh hoa. Tiếng đau còn vọng Quy hòa. Người đà thiên cổ nhạt nhòa hồn trăng

Thật thà tử tế mà vấp phải nghiệp phận éo le. Cuộc sống đang bình yên, ấm áp thì người vợ hiền bỏ anh mà đi. Để lại hai đứa con nhỏ. Từ nay gà trống nuôi con . “Em đi đã mấy mùa rồi. Tháng ngày vỡ nửa, đứng ngồi ngổn ngang... Em đi bỏ lại nắng mưa. Gian truân anh giữa gió lùa ngày đông”. Đây là bài thơ anh viết nhân ngày giỗ vợ thứ 15. Một bài khác viết ngày giỗ vợ thứ 18. Thật cảm thương “Con mình chưa kịp trưởng thành. Như hai chim sáo lạc cành cội xa”! Hai con dại không có mẹ, anh đang phải ấp iu, anh càng thương cho những cảnh đời hẩm hiu côi cút: Em Diện “Đã tàn tật lại mồ côi. Nỗi đau cứ thế nhân đôi thành đời”. Không cha mẹ, nương nhờ hàng xóm, sớm tối lần hồi rau cháo, đói rét co ro trên chiếc xe lăn, đầu đường cuối chợ: “Sinh ra ai cũng kiếp người. Mà sao lận đận khóc cười là em?” Sự cảm thông của một tấm lòng yêu thương.

Phạm Trung Tín sống mộc mạc, chân tình. Nửa đời sau anh lui về vui thú điền viên. Sống hiền bên sông ”ngõ nhà hoa trái trổ bông”, có tiếng gà trưa, tiếng chó sủa, có câu thơ thấm đẫm nắng mưa , cơm canh đạm bạc, đêm thừa trăng sao. Tâm hồn nhà thơ đã hòa quyện với thiên nhiên, vạn vật... Và rất đúng cách của người quê, bằng một câu thơ giản dị, mà hay, mà khó viết, chỉ người gắn bó máu thịt với làng quê đồng ruộng, mới viết được câu như thế này: “Lòng như da thịt ruộng đồng”. Tôi chưa bao giờ nghe ruộng đồng có “da thịt”. Rất lạ !

Sinh nhật lần thứ 63, Phạm Trung Tín viết bài thơ như bộc bạch tâm tư : “Điền viên mộng mị bình thường. Hiền cư cây cỏ khiêm nhường bên sông. Rượu thơ tri ngộ đôi dòng. Viết câu gian khó vào trong tuổi mình”. Thật điềm tĩnh, chín chắn, bình thản chấp nhận gian khó vì đó là quy luật của cuộc đời!

Sống hiền rồi cũng gặp lành! Trời bắt anh phải chia lìa người vợ trước. Nhưng đã bù đắp, đưa đến cho anh người phụ nữ thứ hai, cũng hiền hậu nết na. Một người trẻ tuổi, trước là chú cháu, sau thành anh em, biết gánh vác, biết cảm thông, chia sẻ : “Tuổi chênh tôi chút ngậm ngùi. Rộng lòng em lại ngọt bùi sẻ chia!” Và anh thật sự hạnh phúc trong tình yêu mới : “Cơm canh đạm bạc tập tàng cá ao. Tựa chiều nhè nhẹ mây cao. Tựa em tôi lại nghêu ngao đời mình”. Chứng tỏ cuộc sống đang rất nhẹ nhàng, tinh thần sảng khoái. Câu thơ đưa lại cho người đọc cảm giác thoải mái, dễ chịu. Từ “nghêu ngao” để đây thật hay !

Sinh nhật bạn thơ, bạn đồng niên Trần Trí Thông, anh có thơ tặng bạn nhưng cũng là nói với mình, nâng ly để “chạm tuổi già”. Cả hai đều đã nụ cười chân chim, nhưng tâm hồn bình yên, cuộc đời vẫn vui dù có gian nan vất vả: “Sáu tư tuổi lắm trật trầy mà vui”. Vậy là mừng lắm, vì người thơ đôi khi không lý giải được, buồn vui vô cớ như Thi sỹ Xuân Diệu ngày trước “Tôi buồn chẳng hiểu vì sao tôi buồn”. Ở đây nhà thơ: “Tự mình làm một bơ vơ”, rồi than thở “Sao tôi hụt hẫng thế này”. Bởi cái thói đa cảm của người thơ ý mà. Anh thương cho nàng Kiều : “Hồng nhan chi để úa nhàu tuổi hoa”. Nghẹn ngào trước nỗi đau ứa máu của Hàn Mặc Tử. Rồi lại lênh đênh vương víu với các em gái ở chợ nổi miền tây bao la sông nước: “Bồng bềnh điệu lý xôn xao. Con sông cứ thế chảy vào lòng tôi...Khôn tôi thành kẻ dại khờ. Chợ tan rồi cứ thẫn thờ với sông...”. Đúng là người thơ đa cảm! Chí ít cũng không phải một lần, nhà thơ thẫn thờ với sông. Mà thời trẻ, khi con tim mới biết rung cảm cho tình yêu đầu đời, anh đã lỡ chuyến Đò tình, để cả đời nuối tiếc: “Ngày xưa đau nỗi muộn màng.Ta vừa chạm bến người sang sông rồi”. Lỡ đò một chuyến, để đau một đời. Không chỉ lỡ đò, đời còn lắm truân chuyên, dâu bể: “Đường chân trời - nỗi bể dâu...Chỉ thơ lưu dấu nỗi đau của đời”.

Người thơ Phạm Trung Tín lắm tơ vương, nhiều dan díu. Gặp tà áo bà ba của em gái miền sông nước Nam Bộ là anh đã đứng ngồi không yên. Lên Tây nguyên, gặp cô gái Banar: “Hồn nhiên như núi với đồi. Lối mòn sỏi đá thương đôi chân trần”, không biết rừng núi bồi hồi hay lòng anh bồi hồi: “Mai này phố thị tôi ngồi nhớ em!”. Lòng người vương vấn, nhìn vạn vật xung quanh cũng thấy vấn vương, quyến luyến. “Bắt đền díu dan” là bài thơ mang tâm trạng như thế : “Gió ngồi dan díu hương mai. Trộm nhìn vườn vắng - hình hài bão giông. Nét trời nên những đường cong. Lưng ong thắt lại một vòng thiên thai”. Câu thơ giầu hình tượng, gây ấn tượng. Câu kết của bài thơ cho chúng ta thấy rằng : sẽ có nhiều anh chàng phải thao thức vì cái bệnh díu dan này : “Hết ngày rồi lại sang đêm. Ai đem thương nhớ bắt đền díu dan”

Là người sống cởi mở, chân tình, nhà thơ Phạm Trung Tín có nhiều bạn bè, nhất là bạn văn chương. Họ biết trân trọng, yêu thương, chia sẻ, giúp đỡ nhau. Anh cũng có nhiều thơ tặng bạn : Huynh có Giang Lam, Lưu Trần Đại, muội có Trần Mai Hường, ngang tầm phải lứa có Trần Trí Thông, Đinh Thường, Phạm Hữu Bình và còn nhiều nữa vân vân. Thật đáng quý !

Con người ta, thời trẻ thường tung hoành ngang dọc. Sau những thác gềnh, từng trải, được thua. Đến xế chiều, chựng lại. Trẻ hướng ngoại, già hướng nội. Phạm Trung Tín đã đến tuổi hướng nội. Lòng hướng về nguồn cội, về cố hương. Trong tất cả sự “hướng” ấy, đặc biệt anh hướng về MẸ GIÀ. Nhà thơ có chùm thơ viết về Mẹ rất cảm động: Về bên Mẹ, Bình yên bên Mẹ, Về thăm Mẹ, Tâm nhang con nguyện... Những câu thơ viết về Mẹ rất thật, rất thương : “Tết này sang tuổi chín ba. Mẹ như than rạ, chuối già chín cây”. Than rạ mau tàn, chuối chín cây dễ rụng! Mừng cho tác giả còn Mẹ già đã Đại thọ. Quý trọng phẩm chất tốt đẹp của người con trung hiếu: “Thảo thơm phục dưỡng từng ngày”. Câu thơ là tấm lòng của tác giả. Anh thương Mẹ bước chân chậm chạp bên thềm và lo lắng, theo dõi từng miếng ăn, giấc ngủ : “Ăn thường nghẹn nuốt khó trôi. Ngủ không tròn giấc, khuyết bồi nửa đêm”. Không phải người con nào cũng làm được điều này. Cảm phục tấm lòng hiếu thảo .

Đi cho thỏa chí trai “Chân con lang bạt mọi miền. Ba lô chật ních nỗi riêng quê nhà”, thương Mẹ già như thân cò lặn lội, cõng nắng triền đê , lúc nào cũng đỏ mắt ngóng con. Con giờ tóc đã pha sương: “Hôm nay về lại quê nhà. Sà vào lòng Mẹ con đà tóc sương. Mà nghe thơ ấu lạ thường. Đâu đây giây phút thiên đường đời con !”.

Hạnh phúc biết bao nhiêu khi tóc đã bạc được sà vào lòng Mẹ, đúng là giây phút thiên đường hiếm hoi.

Bây giờ đã nên ông nên bà: «Nằm nghe lòng Mẹ bao la. Con càng nhỏ bé hơn là ngày xưa !”. Càng thấm thía, càng thương Mẹ: “Chiều chiều tựa cửa ngó ra. Ngổn ngang bao nỗi- mắt già lại cay!”. Phạm Trung Tín đã tròn chữ Hiếu. Nhưng với con cái không bao giờ cảm thấy đã báo hiếu đủ đầy. Mừng anh còn Mẹ già để phụng dưỡng. Cầu chúc cho Cụ Bà mạnh khỏe, để anh còn được chăm chút, nâng niu đến ngoại Bách niên !

Người ta thường nói “Thơ là người” với nhà thơ Phạm Trung Tín thì đúng vậy.

Đọc hết Đường chân trời của anh, ta gặp một trái tim nhân hậu. Từng cảm xúc chân thật. Không phô trương, không vuốt ve phóng đại. Câu chữ giản dị, mộc mạc. Nó chính là cuộc đời của tác giả. Dù có khó khăn, vất vả nhưng vẫn điềm tĩnh, vững vàng, giữ được tình yêu, niềm đam mê trọn vẹn với THƠ.

Rất vui mừng, xin trân trọng giới thiệu với các bạn tập thơ Đường chân trời của Phạm Trung Tín

Sài Gòn một ngày cuối Thu Kỷ Hợi (10- 2019)
ĐNA.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm