TIN TỨC

Phiêu hoang cùng “gã thi sĩ hoang” | Vũ Tuấn

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng: 2023-05-03 17:23:41
mail facebook google pos stwis
1311 lượt xem

Trong thơ Thi sĩ Nguyễn Thánh Ngã rất nhiều câu có biểu tượng như một “Sologan”, có giá trị khơi nguồn năng lượng tâm linh...

Nhà thơ Nguyễn Thánh Ngã

Ông chứng nhập tinh thần Phật giáo vào ngôn ngữ thơ ca thanh thoát, bay bổng, biến ảo lạ thường. Nhiều câu thơ giống như công án thiền. Người đọc cứ loay hoay với những đáp án mà không chọn được đáp án nào khả dĩ có thể làm thỏa mãn cảm xúc của mình. Bởi công án thiền không có đáp án.Ngôn ngữ mang hơi thở thiền làm cho hơi thơ càng đa âm, đa thanh hơn khi rót vào trạng thái thụ cảm của người đọc.

Tôi thích những bài thơ ngắn của ông, ngắn mà không ngắn, càng đọc càng thăm thẳm…Có nhà thơ nói “Tôi không có thời gian viết ngắn”. Viết ngắn nhưng trường năng lượng của người viết rất dài, nội lực rất sâu, như một đĩa nén tâm thức, thấu triệt, minh triết.

“Hãy buồn đi em

                   Vì nỗi buồn như chiếc nón

                   Có thể che mát bầu trời”

                              (Buồn)

Năng lượng thiền có khả năng đưa ta đến những cảnh giới ta muốn. Nó cũng có khả năng “điều tiết”cả vũ trụ này khi nó đạt đến một cấp độ cần thiết, trong một “sát- na tâm”là “ý”:

                    “Ý nghĩ

                    Ôi ý nghĩ linh thiêng

                    Nếu ý nghĩ là cánh chim

                    Dù bầu trời cao rộng mấy

                    Nó cũng bay về đồng xanh

                    Nhặt thóc

                    Nhưng nếu ý nghĩ chỉ là giọt nước

                    Nó sẽ bốc hơi

                    Và khiến cả bầu trời giông tố”

                                        (Ý)

Năng lượng thiền có khả năng “kích hoạt” tâm thức, đánh động tâm thức, bùng vỡ tâm thức; làm thăng hoa những câu thơ, thoạt nghe có vẻ nghịch lý nhưng chẳng khác nào như một sự “mặc khải” làm khó chịu những suy nghĩ nông cạn hời hợt:

“càng

giàu

chúng

ta

càng

rỗng

túi

niềm

tin”

( Rỗng túi)

 

“Đứa trẻ” là bài thơ đoạt giải nhất cuộc thi Hai-ku năm 2009 của ông như một lát cắt cuộc đời, nhẹ , chậm…tuy ít chi tiết nhưng giống như một truyện ngắn cô đặc lại. Có thể dàn dựng thành một bộ phim thú vị!

                         “Xó chợ

                         Chiếc lon trống

                         Hạt mưa mồ côi”

Chín chữ thôi nhưng ta có cớ để “bàn”. Chín chữ thôi mà đeo mang bao thân phận nỗi niềm, nhân sinh, thế sự. Có người cho rằng bài thơ không thuần túy phong vị thơ “haiku” Nhật Bản. Nhưng thử hỏi một nhà thơ Việt Nam, sống và cảm nhận hương sắc cuộc đời trên đất nước của mình, làm sao có thể viết thơ “haiku” mang hơi thở của xứ sở hoa anh đào, của đất nước “mặt trời mọc”? Xét kỹ, nếu đặt bài thơ vào mọi “xó chợ” trên mặt đất này, dù ở đất nước nào cũng có phần đúng với tất cả.Với tôi, bài thơ thành công và nói được nhiều điều hơn những gì mong đợi!

Thơ ngắn nhưng mang lại cho người đọc sự suy tưởng và chiêm nghiệm không có điểm dừng.Tố chất này có được là do thi sĩ của chúng ta biết thực hành “thiền”, ông biết tiết chế, dừng lại đúng lúc mà vẫn có khả năng làm cho câu thơ lan tỏa:

                        “khi chúng ta ký họ tên mình

                         vào những đám mây

                         mây sẽ mang mưa xuống

                         lưu vào đất đai

                         chờ ngày nhận diện”

                                    (Hóa thân)

Cái nhìn của thi sĩ là cái nhìn của con mắt “thứ ba”. Cái nhìn trực diện mà không lộ diện trong thơ. Sự tiết chế ngôn ngữ là một dụng công để “treo” sự cảm nhận của bạn đọc lên cành cây nghệ thuật; tạo ra cảm giác vừa thích thú, vừa hồi hộp trong trò chơi ngôn ngữ “mạo hiểm” cho điểm rơi của tứ thơ được “bọc lót” rất dễ chịu!

Với thể thơ ngắn, kiệm lời, mỗi câu chữ, mỗi dấu chấm câu… là một “mã khóa” đặc biệt được cài cắm không dễ tìm. Đọc hết bài thơ, phải quay lại điểm xuất phát xâu chuỗi những ký tự, giải mã, nhận diện bài thơ ; có khi “chìa khóa” nằm trong nhan đề, “nhan sắc” bài thơ lúc này mới “xuất đầu lộ diện” :

                   “sẽ không có gì quan trọng

                   nếu em không yêu tôi

                   sẽ chẳng có gì trầm trọng

                   nếu em không lấy tôi

                   nhưng vườn cây của hồn tôi đã đơm hoa kết trái

                   và mùa màng đã cưới nhau từ lúc giao mùa”

                                       (Tiệc cưới)

“Tiệc cưới” chính là chìa khóa của bài thơ, mở ra cánh cửa tình yêu vô tận, mà ở đó không đợi “người tình” thiên nhiên ban tặng; “gã thi sĩ hoang” đã phiêu tự lúc nào…với lễ hội hóa trang phồn sinh, làm cuộc truy hoan bản thể. Khai sinh và đơm hoa kết trái yêu thương. Khai phóng đam mê cùng vạn vật đất trời, vượt thoát bản năng rồi lại hòa nhập trở về với chính mình! Bạn đọc, nếu bạn có cùng nhãn quan và cảm quan thấu triệt với cái nhìn của thi sĩ thì bạn mới thấy thích thơ loại này. Điểm tương đồng này trong thiền học được nhận dạng bằng “đẳng cấp tâm linh”. Dĩ nhiên bạn phải có một chút am hiểu về thiền và có chút “ tuệ giác”…

Tôi cũng thích những bài thơ tự do của ông, nó phóng khoáng, như một vườn hoa nhiều hương sắc, nhưng lại được trồng tỉa, xếp đặt rất chỉnh chu. Có những cánh cửa mở ra, đóng lại đúng lúc. Gợi mở nhiều hơn, nói được nhiều hơn. Ấy cũng là do sự thăng hoa của tài hoa. Phẩm chất tài hoa người làm thơ nào cũng có. Ở Nguyễn Thánh Ngã, tôi thấy tố chất tài hoa của ông đậm đặc hơn, làm cho mỗi câu thơ “có chất” hơn, dù đề tài không phải chuyện to tát. Bởi văn chương có điều kỳ lạ làm mê đắm trái tim bạn đọc, không phải là viết về cái gì mà là viết như thế nào.Viết như thế nào chính là bí mật tuyệt vời của thi nhân khi hạ bút:

               “Một giọt nước dành cho một đóa hoa sắp nở

               Trên mặt đất trống hoác cằn khô…

               Bầy kiến kéo đến âm thầm

               Và cành cây run lên

               Sự khao khát khiến chúng tranh nhau

               Giọt

               nước!

               Chỉ một giọt thôi

               Rơi nhoài theo bầy kiến

               Ôi

               bông

               hoa

               hé

               nở

               đón

               nụ

               hôn

               từ

               trời…”

                   (Sống như giọt nước)

Lấy chất liệu từ thiên nhiên, dựng lập cảm hứng sáng tạo từ thiên nhiên, có thể nói Nguyễn Thánh Ngã đã mở hết biên độ hồn mình hòa nhập với thiên nhiên. Ngược lại, thiên nhiên cũng cho ông những tứ thơ, những câu thơ, bài thơ sang trọng nhất. Để cuối cùng Thơ là vật “bảo chứng” số một làm sáng lên tên tuổi và phẩm cách một Thi sĩ đích thực.

Nói thế không có nghĩa ông hướng ngoại xa xôi, chính lúc nhận được của “tứ đại” nguồn năng lượng tối ưu đó, thơ ông lại tìm cách quay về nhìn sâu vào nội tâm mình một cách chân thật nhất mà không kém phần “phiêu hốt”, bảng lảng khói sương, hư hư thực thực…! 

Thơ ông đưa ta gần đến trạng thái “sống với” nhiều hơn “sống cùng”; tương tác nhiều hơn thụ cảm. Tên các bài thơ phần nào đã nói lên điều đó : “đưa mây qua sông”, “tiếng nước vang”, “chiếc bóng rách”, “buổi sáng uống tiếng chim”…

Điều đó thể hiện rõ phong thái sống đúng chất mà ông đã chọn cho mình; khi dành gần như cả đời để làm thơ, theo trường phái thơ “haiku” nói ít gợi nhiều, chấm phá tối giản mà bức tranh thơ đầy sắc màu, hàm ngôn sâu lắng…

                   "Buổi sáng uống tiếng chim

                    Chùm véo von trôi vào cổ họng

                    Mới hay lòng mình vườn hoang…

                    Cỏ dại

                    Không ai phát dọn

                    Lối mòn thành hang ổ cáo chồn

                    Ta thành kẻ ẩn nấp trong ta

                    Tiếng chim

                    Như những cung bậc thanh âm

                    Lắng vào cây cỏ

                    Ta uống say những nốt lặng tự do

                    Hang ổ sáng trong

                    Cáo chồn ngửa mặt

                    Lòng mình rửa sạch

                    Uẩn khúc trôi đi trên cung dây

                    Hồn bừng lên thánh thót

                    Ôi vườn hoang /vườn hoang

                    Năm giác quan mở cửa chân trời

                    Đôi mắt vẽ đường bay đến hương thơm vô tận

                    Tai có thể nghe tia ánh sáng

                    …

                    Thèm tiếng chim trong từng tế bào gội rửa

                    Và lời mách bảo của trái tim

                    Về tiếng nói trong hoang lặng đã bị đánh cắp…

                                   (Buổi sáng uống tiếng chim)

Mở năm cửa giác quan để cảm nhận từ trường vũ trụ, thu hết mọi kích cở âm thanh sống động của đất trời cốt chỉ để gột rửa hồn mình. Phải chăng đây là cách “sám hối” để lắng lọc thân tâm giữa “uất nghẹn tiếng ồn ô nhiễm”, giữa “cơn ói trào ngược”, giữa “những sáng buồn nôn” đời thường pha tạp? Chỉ còn cách luyện thở này mới làm cho hồn thơ trong trẻo quay lại với chính mình. Khi mà “tiếng nói trong hoang lặng đã bị đánh cắp…”. 

Vâng đúng vậy! Con người hiện đã bị “đánh cắp” nhiều thứ vì không đủ sức giữ mình trước cám dỗ nhiều chiều của đời sống.

Ai đủ tỉnh táo để tìm ra bầu sinh quyển trong lành cho lá phổi xanh của chính mình và thiên nhiên quanh mình?! Khi mà con người hiện đại đã hướng ngoại tìm cầu rồi lạc lối, không nhớ nẻo quay về, để mặc hồn mình cằn khô. Khi mà đời sống văn minh quay cuồng với nhịp sống gấp, bất chấp tất cả, con người có nguy cơ dẫm đạp lên nhau để tồn tại. Khi mà nhân tính, nhân văn, nhân bản bị hạ thấp, may mắn còn tiếng nói của nhà thơ - người mang sứ mệnh tỉnh thức con người. Thông điệp thơ ca đi trước và có giá trị cảnh báo những lệch lạc trong đời sống, trong nhận thức con người.

Bằng cảm quan nghệ thuật nhà thơ lặng lẽ lên tiếng. Đó chính là tiếng nói tạ lỗi với thiên nhiên. Bằng bầu nhiệt huyết yêu thiên nhiên tha thiết nhà thơ thốt lên. Đó chính là tiếng nói của lương tri thời đại. Con người muốn trường cửu hãy để mẹ thiên nhiên cũng phải tự nhiên trường cửu!

Nguyễn Thánh Ngã - nhà thơ được mệnh danh là “Gã thi sĩ hoang” nhưng chất thơ trí tuệ; chất đời sống động mà chân tình. Có lúc ngỡ như ông viết ngẫu hứng, trong guồng quay bất tận của “vô thường”. Nhưng không hẳn thế, ông lập tứ rất kỹ, khéo vun vén điều muốn tỏ bày, khéo tránh sự thô lậu tỏ lộ…Tuy nhiên có lúc ông cũng bị rơi vào sự trùng lắp của câu chữ trong một bài thơ. Nên diễn đạt dài dòng, lẽ ra cần phải “tỉa gọt” gọn hơn. Thơ chỉ cần cắm lại chi tiết đặc sắc, hình tượng đặc sắc. Nhưng đó chỉ là tiểu tiết. Tổng thể, đọc thơ ông, ta luôn nhận được năng lượng tích cực!

Ông có hỏi tôi nghĩ thế nào về chữ “hoang”? Tôi cố tình không trả lời trực tiếp như cách thông thường hỏi, đáp.Tôi nói hãy để cho bạn đọc “đồng sáng tạo” là thêm một trường nghĩa, là chắp thêm đôi cánh liên tưởng cho thơ, là mở ra cánh cửa “Windows” vô tận ý…!

Con chữ nằm trên văn bản là con chữ chết. Con chữ đi qua đôi mắt bạn đọc là con chữ có linh hồn. Nếu muốn thì ta có thể tra từ điển để truy nghĩa của một con chữ. Nhưng tôi biết ông cũng như tôi, hỏi chỉ là hỏi, và trả lời chỉ để trả lời. Bởi lúc này con chữ đã có đời sống khác. Thi sĩ hay bạn đọc không còn khả năng “gò cương” níu giữ nó được nữa…

                     “Tôi-gã thi sĩ hoang

                      Như bông cỏ dại

                      Nở mặt sương mù

                      Màu là giấc mơ

                      Bông cỏ dại bị dẫm đạp

                      Hòn đá lăn

                      Tứ thơ dập nát ven đường

                      ……

                     Thi sĩ loài không mọc tóc

                     Loài không đội mũ trên đầu

                     Chỉ có nắng ngang tàng và mưa bao dung ôm chầm 

                     bông cỏ          

                     Ôi bông cỏ hoang,

                     Mi là quê hương của tứ thơ ta - gã thi sĩ đồng làng, 

                     xó núi

                     Mọc là mọc một tình yêu hoang dại

                     Trước gian trá lọc lừa

                     Ta có thể bị vất đi dưới lưỡi cuốc ranh ma

                     Nhưng loài cỏ âm thầm sức chịu

                     Câu thơ có thể nằm nghiêng trổ một đóa nỗi buồn…”

                                             (Gã thi sĩ hoang)

   Khi “câu thơ có thể nằm nghiêng”, hoặc trong trường đoạn nào đó buộc phải nép mình nằm nghiêng ; ta mới hiểu được sức chịu đựng của thi sĩ trước bao nhiêu “bức ngặt” của cuộc đời.

   Hạnh phúc và may mắn vô cùng !

   Chính lúc ấy có một đóa “vô ưu” đã trổ…!

 

                                      (Sài Gòn 4/6/2022)

                                           V.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm
Nguyễn Thành Phong – Nhà thơ tài hoa trữ tình, quan chiêm ngoại vi và nội hàm tự sự luận cảm của thơ Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trữ tình và tự sự là những khái niệm của thơ, ngoại diên và nội hàm là những khái niệm của logic học. Ngoại vi là một phần của ngoại diên chỉ các đối tượng có phạm vi nhất định và chỉ định. Trong thơ, nó là các địa danh, hoặc các nhân vật trữ tình, các không thời gian xác định, tạo nguồn cảm hứng. Ngoại vi nhỏ hơn ngoại diên. Nội hàm là nội dung thuộc tính bên trong cả chủ quan và khách quan của sự vật, hiện tượng. Trữ tình nói bằng cảm xúc, gắn với bộc lộ chủ thể. Tự sự kể lại, tả lại khách thể. Phàm lệ mấy câu để bài viết này đỡ cảm thấy gượng ép, mong được đồng cảm.
Xem thêm
Hãy sống như những người đã chết - Một nhan đề độc đáo
Lúc đi học, thầy cô từng bảo nhan đề là tên của tác phẩm, còn có cách gọi khác là đầu đề, là cái tít chung của một văn bản. Nhan đề (đầu đề) thường do người viết đặt ra - như người bố, người mẹ đặt tên cho đứa con của mình; nhưng cũng có khi do người khác (cán bộ biên tập) đặt hộ, hoặc đổi tên đi cho hay, cho phù hợp với chủ đề của tác phẩm.
Xem thêm
Inrasara: Tác phẩm văn chương, từ tốt & hay đến lớn
Tại tọa đàm cùng tên do Hội Nhà văn TPHCM tổ chức, nhà thơ – nhà phê bình Inrasara đã mang đến những luận điểm sắc sảo, giàu trải nghiệm, mở ra cách nhìn mới về sự cộng hưởng giữa sáng tác và tiếp nhận, để văn chương thực sự chạm tới và ở lại lâu dài trong lòng người đọc.
Xem thêm
Văn học Đổi mới, một cách nhận diện
Cho đến nay, cụm từ “Văn học Đổi mới đã được sử dụng khá rộng rãi. Từ trong nhà trường đến ngoài xã hội, từ báo chí đến các các cơ quan truyền hình, đài phát thanh, trong các bài nói chuyện hay phát biểu của các nhà sáng tác, phê bình văn học, nó được xuất hiện một cách tự nhiên giống như một thuật ngữ đã được định hình.
Xem thêm
Phù sa tâm hồn qua “Ký ức bão!” của Lương Duy Cường
Những ngày đầu tháng Tám, tôi có chuyến đi miền Trung vào đúng dịp trời như rút ruột để nắng, đến nỗi chỉ cần thêm một giọt bỏng sẽ vỡ cả thinh không. Để mấy ngày sau trở về nhà, trong giấc mơ, quờ tay, tôi vẫn chạm vào bỏng rát. Người ta nói, trước những cơn thiên tai, nắng thường đi trước để dọn đường.
Xem thêm
Đói và sự thức tỉnh mình
Đọc ĐÓI của Đỗ Thành Đồng ngay trong phút thứ 59 và chuẩn bị bước qua con số 0. Nhìn lên góc giấy, hóa ra đây là trang thứ 59 LỤC BÁT ĐỜI. Có những sự tự nhiên, ngẫm cũng hay.
Xem thêm
Tác phẩm hay –Từ tiếp nhận và sáng tác
Có những câu hỏi tưởng chừng giản dị nhưng khiến người cầm bút trăn trở cả đời: Thế nào là một tác phẩm hay?
Xem thêm
Cảm thức quê hương, từ những tản văn đậm hồn quê
Ai đó từng nói: “Trong vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất đó là trái tim người mẹ”. Tình yêu của mẹ đẹp đẽ, thiêng liêng và bao la chẳng có bến bờ. Có mẹ, ta như có tất cả. Khi mẹ vắng xa cuộc sống sẽ đầy nỗi buồn thương, chán chường, tiếc nuối… Thời gian có chờ đợi ai bao giờ…
Xem thêm
Ký ức bóng mùa qua hay là cảm thức thời gian trong thơ Cao Ngọc Thắng
Cao Ngọc Thắng đã thực sự ám ảnh và thao thức về thời gian, không ngừng đi tìm thời gian đã mất để phục sinh những ký ức gần và ký ức xa trên hành trình tâm linh sự sống.
Xem thêm
Văn học các dân tộc thiểu số sau ngày đất nước thống nhất và hướng đi mới trong kỉ nguyên số
Văn học hiện đại các dân tộc thiểu số sau gần một thế kỉ hình thành và phát triển, đến nay đã có gần 1500 hội viên ở các loại hình nghệ thuật. Các thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã đạt được những thành tựu và ghi dấu ấn độc đáo trong nền văn học nước nhà.
Xem thêm
Những câu chuyện hấp dẫn và cảm động
Giữa tháng 6 năm 2025 nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan cho ra mắt tập Bút ký mang tựa đề:“Một thời đã qua” do NXB Thuận Hóa ấn hành, dày 224 trang, khổ 14,5 x 20cm. Với vốn sống từng trải, đảm nhiệm nhiều trọng trách chuyên môn khác nhau, có dịp đến nhiều vùng miền, bắt gặp những câu chuyện thú vị, người nghệ sỹ đa tài ấy lặng lẽ chép vào sổ tay, nay mới có dịp viết xong 20 câu chuyện về “người thật, việc thật” đầy hấp dẫn và cảm động. Đó là nghệ sĩ Hồ Thanh Thoan, Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Quảng Trị.
Xem thêm
GS.TS Trần Văn Khê tự truyện về cách học
GS.TS Trần Văn Khê, cây đại thụ của nền âm nhạc dân tộc Việt Nam, không chỉ được biết đến là người có công rất lớn trong việc đưa âm nhạc dân tộc Việt Nam ra thế giới, như nhà thơ Huy Cận đã từng nói về ông: “Chân đi tám hướng, mười phương/Tinh thần dân tộc một đường trước sau”. Là người Việt Nam vinh dự nhận hơn 14 giải thưởng, huy chương, bằng danh dự giá trị trong nước và thế giới. Mà GS.TS Trần Văn Khê còn là người có tấm gương sáng về tinh thần tự học, phương pháp học... đáng để chúng ta học hỏi.
Xem thêm
Thăm nơi neo đậu quê mình với thơ
Con người ta khi tuổi càng cao thì nỗi niềm về quê hương bản quán càng dâng đầy trong tiềm thức, nhất là người đó lại là người tha phương, sống nơi đất khách.
Xem thêm
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Cây bút phê bình cự phách
Bài của PGSTS Vũ Nho đăng Văn nghệ Công An
Xem thêm
“Ngày Xanh” trong thơ Hồ Thế Hà hay là thơ của một thời hoa mộng
Bài của TS Hoang Thu Thủy về thơ PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
“Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh
Bài phản biện của nhà thơ Hương Thu xung quanh việc khen chê truyện ngắn Trăm Ngàn
Xem thêm