TIN TỨC

Thơ để đọc và thơ để nghe – Tiểu luận của Anh Ngọc

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
634 lượt xem

ANH NGỌC

Một bài thơ hay là một thực thể – có thể là bằng văn bản nằm ngay trước mắt, có thể là được đọc hay ngâm vang lên bên tai, thậm chí, với cách hiểu của tôi, tôi luôn cho rằng thơ là một thể loại văn học gần nhất với nghệ thuật, mà ở đây là âm nhạc. Thơ luôn vang lên trong ta, dù ta đọc hay xem nó trong im lặng hoàn toàn. Vâng, và tôi đảm bảo là cũng một câu thơ thôi, nhưng người Hà Nội cảm nhận nó theo âm hưởng tiếng miền Bắc, còn người Huế chẳng hạn, sẽ cảm nhận nó bằng âm hưởng tiếng Huế, các bạn cứ cố hình dung mà xem…

Tôi có một từng trải lý thú: Đã đi nói chuyện thơ cho nhiều đối tượng người nghe khác nhau, nhưng mấy lần tôi nói cho các bạn trong Hội người mù nghe là xúc động nhất, và có lẽ thành công nhất. Vì đơn giản các bạn ấy không bị phân tán bởi cái nhìn của mắt, mà chỉ toàn tâm toàn ý tập trung vào cái tai nghe… Họ ngồi nghe chăm chú và say sưa!

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn

Tôi không phải là một người quá cực đoan, nên về điều này tôi cho rằng:

1.Thơ là ngôn ngữ, nên dĩ nhiên phần quan trọng của nó là nó mang thông điệp trong từng từ ngữ. Và điều này rất đúng khi ta đọc thơ bằng văn bản và chỉ bằng văn bản mà thôi. Ta sẽ cảm nhận cái hay của thơ từ những từ ngữ cụ thể và có thể nhận ra từ ngữ dùng như thế trong trường hợp đó thì hay ở đâu… ta có thể sửa và đưa ra những phương án khác v.v…Ví dụ thú vị cho điều này có lẽ là câu chuyện về hai từ “thôi, xao” (“đẩy, gõ”) thời Đường.

Chuyện kể rằng thời nhà Đường bên Trung Hoa có nhà thơ Giả Đảo, vốn là một vị hòa thượng, và ông này làm thơ kỹ lưỡng đến mức trong một bài thơ của ông có câu “nhà sư… cửa dưới trăng”, ở chỗ bỏ trống này là do Giả Đảo vô cùng phân vân không biết nên dùng từ “gõ” (cửa) hay “đẩy” (cửa)… đến nỗi ông mải nghĩ không để ý nên cứ đứng chắn giữa đường của một đoàn quân đang hành quân, lính tráng thấy một người như điên, đứng huơ chân múa tay đang làm động tác gì đó cản bước đoàn quân nên liền gô cổ ông lại và dẫn đến vị chỉ huy, may sao ông quan chỉ huy ấy lại là nhà thơ Hàn Dũ lừng danh, và khi nghe Giả Đảo tường trình vụ việc liền vui vẻ góp ý cho nhà thơ này là nên dùng chữ “xao” cho câu thơ trên. Vì “xao” vừa tượng hình tượng thanh hơn “thôi”, lại vừa hợp lý hơn vì đến nhà thăm bạn thì phải “gõ” cửa chớ sao lại “đẩy” cửa cho được! Vì cái duyên chữ nghĩa này mà mấy lần Hàn Dũ đã giới thiệu và khuyến khích Giả Đảo hoàn tục để tiếp tục lai kinh ứng thí.

Nói như thế để thấy từ ngữ trong thơ có thể mang nghĩa và việc tìm nghĩa cho nó để nó có tính biểu cảm là kỳ khu và dụng công vô cùng, không ai có thể coi thường mà ném ra những từ ngữ miễn là nó có nghĩa hợp lý.

Nhưng ví dụ chính xác nhất cho thứ thơ chỉ tận dụng phần ngữ nghĩa của từ ngữ chính là các loại thơ hiện đại hiện nay. Các bạn sẽ thấy thơ của các nhà thơ hiện đại (hậu hiện đại thì đúng hơn) là một thứ ngôn ngữ dùng hình ảnh (nhiều khi rất tinh tế) để chở các ý tưởng (nhiều khi rất sâu sắc và có tính khám phá)… nhưng họ gần như không dùng đến phần phi ngữ nghĩa của các từ ngữ (chẳng hạn những từ phụ, từ hư, từ đệm, hô ngữ…) và đặc biệt là không cần sự hỗ trợ của nhạc tính, sự lay động của những yếu tố vô nghĩa, phi lý tính trong ngôn ngữ…

Loại thơ này thực sự có những giá trị cao quý và được một số người tâm đắc. Trường thơ rộng bát ngát, cũng như mâm cơm có nhiều món, đủ đáp ứng mọi thứ khẩu vị. Ta không nên và không thể bắt mọi người không được thích và chọn ăn thứ đặc sản của họ.

2. Nhưng theo thiển ý của tôi, thơ là gồm cả phần ngữ nghĩa như đã nói trên đây và không thể thiếu phần phi ngữ nghĩa. Tôi cũng chưa cực đoan đến mức coi thơ như âm nhạc, chẳng hạn, ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn tuyệt vời như vậy, nhưng nếu nó chỉ được tồn tại bằng văn bản, như là tác phẩm văn học, thì, lạy Chúa, nó chỉ còn lại 49% giá trị không hơn…

Hình vẽ Giả Đảo, nhà thơ Trung Quốc thời Trung Đường, người nổi tiếng về sự cẩn trọng trong việc dùng chữ cho thơ.

Nhưng thơ là một loại “động vật lưỡng thê”, có hai đời sống. Những bài thơ hay nhất từ thuở thơ Đường cách nay hơn ngàn năm đến nay vẫn khiến chúng ta xúc động vô cùng… nhưng nếu đưa cho các bạn yêu thơ duy lý (nhất là ở phương Tây) thì họ không công nhận đâu. Nhưng những câu thơ trong “Thanh minh” của Đỗ Mục – trong nguyên bản đã hay, và vẫn hay trong bản dịch Việt ngữ:

“Thanh minh lất phất mưa phùn
Khách đi đường thấm nỗi buồn xót xa
Hỏi thăm quán rượu đâu là
Mục đồng chỉ lối Hạnh Hoa thôn ngoài”

Không có một tư tưởng nào, một triết lý nào, và cả các thủ pháp tu từ cũng không nốt… mà những ai đồng cảnh ngộ như nhân vật của thơ cứ nhớ đến hình ảnh trong đó là đồng cảm dễ sợ…

Hoặc một bài như “Lương Châu từ” tả cảnh một đồn biên ải heo hút tận trên đỉnh núi chơ vơ ở chót biên cương phía Tây của Trung Quốc ngày xưa… cái “nhất phiến cô thành vạn nhận san” ấy và câu thơ kỳ lạ: “Xuân phong bất độ Ngọc Môn Quan”…đã khiến bao đời nay hễ ai nhớ đến hình ảnh ấy cũng buồn thấm buồn thía…

Và đó là thơ hay. Vì nó khiến ta xúc động và có thể không hiểu, không cần phải cắt nghĩa vì sao…

Trở lại với cái phi ngữ nghĩa và sự lay động của nhạc tính, tôi xin kể một kỷ niệm:

Trong lần được dự một cuộc hội thảo trên biển, tôi may mắn cùng dịch giả, nhà văn Thái Bá Tân và cố nhà thơ Phạm Hổ cùng hơn 300 nhà thơ đến từ nhiều đất nước châu Âu và cả Mỹ, lênh đênh trên con tàu lớn của Hy Lạp, đi từ Địa Trung Hải, vào biển Êgiê, băng qua Hắc Hải… đến với các hải cảng của mấy nước nằm quanh Hắc Hải như Ođetxa của Ukraina, Kônxtanta của Rumani, Varna của Bungari, Istanbul và Izmia của Thổ Nhĩ Kỳ… và 9 đêm lênh đênh trên biển là 9 cuộc hội thảo về thơ bất tận.

Lần ấy, do trình độ tiếng Anh còn hạn chế, tôi chỉ làm được vài việc nhỏ, trong đó tôi muốn truyền đạt đến các đồng nghiệp Âu – Mỹ cái hay của thơ lục bát Việt Nam. Và tôi đã chọn bài thơ “Ngậm ngùi”, một kiệt tác của nhà thơ Huy Cận để minh họa cho ý mình. Thoạt đầu, tôi đọc diễn cảm bài thơ, đoạn, tôi ngâm theo thể ru con và cuối cùng hát. Bài hát do nhạc sĩ Phạm Duy phổ bài thơ này… Và điều tôi muốn chuyển tải đến cho các bạn đồng nghiệp quốc tế là vẻ đẹp của tiếng Việt và đặc thù của thể thơ truyền thống thuần túy Việt Nam và đậm chất phương Đông. Có vẻ như các bạn quốc tế thích thú vì âm hưởng phong phú của tiếng Việt “nói thì như ngâm thơ, ngâm thơ thì như hát…” nên có mấy bạn nhà thơ nữ (Ba Lan thì phải) còn thích thú xin phép tôi ghi âm lại và… phát trên đài phát thanh của họ… Chẳng biết rồi họ có làm thế không, nhưng sự lay động của thơ Việt ở đây đã chứng minh cho điều tôi nói ở trên về sức truyền cảm nằm ngoài ngữ nghĩa của thơ, vì đơn giản tôi không có bản dịch bài thơ này ra tiếng Anh và dĩ nhiên mọi người không biết đích xác nội dung nó nói cái gì…

Thơ để đọc và thơ để nghe giống và khác nhau là như thế đấy.

Nguồn: https://vanvn.vn.

Bài viết liên quan

Xem thêm
GS Mai Quốc Liên – Người đất Quảng cương trực
Tôi gặp GS-TS Mai Quốc Liên tại nhiều sự kiện của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. Trong các cuộc họp, mỗi khi đăng đàn, ông sang sảng chất giọng Quảng đậm đà, khảng khái, thẳng thắn, thậm chí có lúc tranh luận khá gay gắt, chẳng cần rào trước đón sau, mà cũng chẳng ngại va chạm, có thể hơi làm “nghịch nhĩ” ai đó, nhưng tư duy logic, liên tưởng, liên kết các vấn đề mạch lạc. 
Xem thêm
Để thơ không “thất lạc nhau” nữa
Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 9/2024
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: 350.000 tỉ đồng chấn hưng văn hóa vẫn là con số rất ít
Chiều 29.02 phát biểu tại buổi gặp mặt giữa Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước với trí thức, nhà khoa học, văn nghệ xuân Giáp Thìn 2024, Chủ tịch Hội Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã dành thời gian nói về vấn đề xây dựng văn hóa.
Xem thêm
Quyển sách là chữ nghĩa...
Quyển sách là chữ nghĩa. Mà chữ nghĩa của một quyển sách phải kết hợp vừa từ trí tuệ vừa từ trái tim.
Xem thêm
Nhà thơ Từ Quốc Hoài để lại “Khu vườn kí ức”
Từ Quốc Hoài, đến với thơ ca khá sớm. Ông là nhà thơ cùng thời với những tên tuổi quen thuộc: Trần Vũ Mai, Thanh Quế, Thanh Thảo, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh… cũng từng vào chiến trường khói lửa. Nhưng với con đường thơ ca, ông bước chậm, thận trọng, dè dặt. Cho tới tuổi hơn 80 ông chỉ cho ra mắt độc giả sáu tập thơ. Tập thơ thứ 5, “Sóng và khoảng lặng” (2010) đoạt giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Kỹ tính, khó tính (trong thơ và có lẽ cả trong cuộc sống), trăn trở, tìm tòi nên thơ Từ Quốc Hoài không lẫn, tự do, phóng khoáng, lần dò khám phá chiều sâu nội tâm.
Xem thêm
Im lặng- ngôn ngữ đặc biệt của văn chương
Nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2023 – Jon Fosse vừa có một buổi gặp gỡ và đọc diễn từ của mình tại Oslo
Xem thêm
Quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ
Bài đăng báo Văn nghệ của nhà văn Bích Ngân; Thơ và ảnh của nhà thơ Nguyên Hùng...
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Đình Thi: “Một chút trắng hồng dào dạt vàng”
Bài viết của nhà báo Nguyễn Thế Khoa nhân 99 năm ngày sinh nhà văn hóa lớn Nguyễn Đình Thi ,20/12/1924-20/12/2023
Xem thêm
Nguyễn Du bàn về sáng tác văn chương
Bài viết rất bổ ích của nhà thơ Vương Trọng
Xem thêm
Thử nêu cách chữa “chứng lười đọc sách” – Tác giả: Nhà văn Nguyễn Khắc Phê
“Dạy con từ thuở còn thơ”; “Uốn cây phải uốn khi non”… là những điều ai cũng biết, nhưng đã có những thời đoạn do bận rộn mưu sinh và vô số sự xô đẩy, lôi kéo khác nữa, nên rất nhiều người và gia đình đã quên hoặc sao nhãng bài học giản dị và chí lý đã có tự cổ xưa. Có phải những biểu hiện tha hóa trong xã hội hiện nay chủ yếu bắt nguồn từ đó? Thiết nghĩ, cuộc vận động sáng tác văn học hướng đến lớp trẻ và thiếu nhi do Hội Nhà văn Việt Nam phát động đầu năm 2022 là một hoạt động thiết thực của văn giới nhằm góp phần chấn hưng đạo đức xã hội nói chung và góp phần bồi đắp tâm hồn cho lớp trẻ nói riêng.
Xem thêm
Làm mới cải lương – con dao hai lưỡi
Gần đây, cải lương được đưa lên mạng với một số hình thức mới: kết hợp rap, trang phục ma mị… Nhiều người cho rằng cải lương cần phải được “làm mới” để phù hợp với thời đại, với lớp trẻ. Nhưng làm mới cách nào để không bị mất chất, để người xem vẫn còn “nhìn ra” cải lương là câu hỏi không dễ giải đáp.
Xem thêm
“Vua phóng sự” Vũ Trọng Phụng làm gì khi cuốn sách về gái điếm bị đá vào xó tường?
Nguyễn Vỹ lặng lẽ đưa mũi giày đá luôn quyển “Lục Xì” vào trong xó tường. Quyển sách vừa xuất bản, hãy còn mới tinh, nằm xơ xác bên chân tủ.
Xem thêm
Văn học dân gian Đồng Nai trong bối cảnh văn học dân gian Nam Bộ từ 1945 đến nay
Công tác sưu tầm và in ấn các tuyển tập văn học dân gian Việt Nam nói chung đã được các nhà Nho thực hiện từ cuối thế kỷ XVIII với các sưu tập bằng chữ Nôm, chữ Hán. Sang đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cùng với sự phổ biến của chữ quốc ngữ thì các sưu tập văn học dân gian được phát hành phổ biến nhiều hơn nữa. Tuy nhiên trong giai đoạn này phần lớn vẫn là các sưu tập miền Bắc hay ở một số tỉnh thành miền Trung, ở Nam Bộ việc sưu tầm và phổ biến văn học dân gian dưới dạng các tuyển tập in ấn vẫn còn chưa được coi trọng đúng mức, do vậy không gian nghiên cứu văn học dân gian vùng miền cũng đồng thời bị bỏ ngỏ.
Xem thêm
Nhà thơ thì chơi với ai?
Nguồn: Website Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Bộ phim Đất rừng phương Nam: Một số điều “lấn cấn” về nội dung và nghệ thuật cùng với phản hồi của cục điện ảnh
“Đất rừng phương Nam” của đạo diễn Nguyễn Quang Dũng là một bộ phim đang gây ra nhiều dư luận sôi nổi. Bộ phim nhận được nhiều lời khen ngợi, nhưng cũng có không ít tiếng chê. Dĩ nhiên với tư cách là một sản phẩm nghệ thuật, những thành công của phim rất đáng ghi nhận, song khi xem xong bộ phim, đọng lại cũng là không ít điều “lấn cấn” trong lòng một khán giả như tôi.
Xem thêm
Nghĩ về thủ thuật làm phim câu khách
Công thức làm phim ăn khách, người làm điện ảnh đều nắm được. Nhưng cũng như công thức nấu ăn, đọc kỹ sách nấu ăn không có nghĩa ai cũng có thể làm được món ngon.
Xem thêm