TIN TỨC

Thử biện hộ cho các nhà phê bình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-08-13 12:23:21
mail facebook google pos stwis
1324 lượt xem

HOÀI NAM

Lâu nay, khi nói đến văn học Việt Nam đương đại, nghiêm khắc và sòng phẳng, phải thừa nhận rằng nền văn học của chúng ta thiếu vắng một cách đáng lo ngại những tác phẩm lớn, những tác phẩm kết tinh ở bản thân chúng sự đột phá trong tìm tòi nghệ thuật và những trăn trở mang tính triết học về cuộc sống, về thân phận con người.

Đã có nhiều nỗ lực trong việc cắt nghĩa những sự thiếu vắng này: người ta nêu câu chuyện về tự do sáng tác, người ta đặt vấn đề về tài năng và tầm văn hóa của nhà văn v.v... Và, sự thiểu năng của phê bình văn học cũng được tính đến như là một trong những nguyên nhân quy định nên cái thực tế đáng thất vọng ấy.

Tất nhiên, đã và vẫn đang tồn tại nguyên đó những bất cập của phê bình văn học, ví như sự thiếu tính chuyên nghiệp, sự lúng túng trong việc làm chủ và áp dụng những lí thuyết phê bình mới, và người ta có thể sẽ phải trở đi trở lại để nói về những bất cập ấy. Tuy vậy, trong không ít trường hợp, phê bình văn học đang phải gồng mình lên dưới những cái gánh quá nặng, cả những cái gánh vốn không phải của nó. Tôi sẽ thử gọi tên chúng xem sao.


Giáo sư Trương Tửu (1913 - 1999), một trong những nhà phê bình uyên bác và giàu cá tính trong lịch sử phê bình văn học Việt Nam.

Sự khách quan. Yêu cầu nhà phê bình văn học phải có thái độ khách quan khi tiếp cận, tìm hiểu và nhận định đối tượng đã được đặt ra như là một sự điều chỉnh cần thiết trong bối cảnh của một đời sống phê bình quá dư thừa sự xưng tụng: người ta luôn được đọc những bài viết bay bổng, những nhận xét kêu vang, những câu văn đủ sức đánh bóng các tác phẩm các tác giả vốn dĩ là mờ xỉn. Trong hầu hết các trường hợp như vậy, dường như giữa nhà phê bình và người sáng tác tồn tại một mối quan hệ thân thiết hoặc có lợi đến mức nào đó.

Viết, là để chiều nịnh nhau, tâng bốc nhau, hoặc ít ra cũng là để nhắm tới sự “tranh thủ cảm tình” của nhau. Lối phê bình ấy từ lâu đã được định danh là “phê bình cánh hẩu”. Nó đối lập, tuy không khác về bản chất với một lối phê bình cũng phổ biến không kém, là “phê bình vùi dập”, thứ phê bình của sự thù ghét cá nhân: người viết phê bình vốn không mấy quan tâm đến những phẩm chất thực có của đối tượng, đúng hơn thì mục đích phê bình của anh ta là những “cái gì đó” nằm ngoài văn chương.

Dĩ nhiên là cả hai lối phê bình kể trên đều chẳng mang lại điều gì tốt đẹp cho đời sống văn học. Thế nhưng, điều chỉnh chúng bằng cách đặt yêu cầu rằng nhà phê bình phải “khách quan”, e là một sự điều chỉnh sai hướng. Hành vi phê bình, tự trong bản chất của nó đã thấm đẫm tính chủ quan: Tôi tiếp cận và giải mã tác phẩm bằng toàn bộ sở học của Tôi, bằng sự quy chiếu thẩm mỹ và quy chiếu ý thức hệ của Tôi, bằng con người cảm xúc của riêng Tôi.

Ngay cả trong trường hợp nhà phê bình không “lấy hồn mình để hiểu hồn người” - theo cách của Hoài Thanh - mà dùng các phương pháp của khoa học ngoại quan để mổ xẻ đối tượng - như Trương Tửu quan niệm và thực hành từ rất sớm - thì dấu ấn chủ quan cũng thể hiện khá rõ ở việc mỗi người lại có một cách riêng, không ai giống ai, khi áp dụng cùng một phương pháp.

Có lẽ ở đây, đúng hơn thì phải đặt ra yêu cầu về “sự trung thực”: bất chấp những mối quan hệ cá nhân giữa nhà phê bình và người sáng tác, nhà phê bình phải nói đúng những gì mình đọc được từ tác phẩm, bằng không, anh ta nên im lặng. Có thể nói, đây chính là vấn đề đạo đức của phê bình văn học.

Sự theo kịp. Khá nhiều người, nhất là những người sáng tác, vẫn luôn than phiền trách cứ rằng phê bình hiện nay không theo kịp, không đồng hành được với sáng tác. Tác phẩm văn chương xuất hiện, nhưng nhà phê bình thì cứ như đang “nghỉ mát” hoặc đang “ngủ đông” ở đâu đó. Không phải không có cơ sở trong sự trách cứ này khi mà quả thực có những nhà phê bình đã trở nên ngại áp sát thực tế văn chương, lười đọc, lười nghĩ, lười viết.

Nhưng mặt khác, sự trách cứ cũng bộc lộ những bất cập nhất định. Trước hết, đó là tâm lý nôn nóng của người sáng tác: anh ta muốn, trong thời gian ngắn nhất có thể, đứa con tinh thần của mình phải nhận được sự hỏi thăm chăm sóc của giới phê bình, càng nhiệt tình càng tốt. Sau nữa, một cách dường như không cần phải bàn cãi, người sáng tác tin chắc rằng ít ra thì tác phẩm của anh ta cũng đạt đến tầm vóc nào đó, mang chứa những giá trị nào đó, bỏ qua nó, đó là lỗi của nhà phê bình.

Sự thực là gì? Không một nhà phê bình nào có đủ thời gian và sự kiên nhẫn để đọc cho hết lượng tác phẩm văn chương cứ tuôn ra ào ào hàng ngày, như thác lũ. Thêm nữa, ngay trong những cái mà anh ta đọc được, không phải cái nào cũng đáng để nói tới: tác phẩm phải kết tinh giá trị nghệ thuật và tư tưởng đến một mức độ nào đó thì mới đủ sức mạnh lay động, kích thích, thúc giục nhà phê bình viết về nó (mà những tác phẩm như vậy thì vốn không nhiều trong nền văn học của chúng ta).

Vả lại, ở đây cũng cần phải tính đến yếu tố thời gian. Giá trị mà tác phẩm mang chứa không phải bao giờ cũng được nhận diện ngay lập tức, thời gian sẽ làm cho nó lắng lại, rõ ra, và khi đó mới là lúc bắt đầu công việc của nhà phê bình văn học. Vì thế, đòi hỏi nhà phê bình nhất thiết phải cất tiếng nói ngay khi tác phẩm ra đời, trong nhiều trường hợp, chính là sự ép buộc nhà phê bình phải bán lúa non những ý tưởng của mình.

Chưa hết, yêu cầu một cách riết róng rằng phê bình văn học phải theo kịp với sáng tác, đôi khi lại khiến người ta phủ nhận cái quyền hành nghề của nhà phê bình trên một lĩnh vực hoàn toàn hợp pháp: tác phẩm văn chương ở các thời đại quá khứ. Thực tế khá phổ biến là, cứ hễ viết về tác phẩm nào đó của quá khứ, nhất là những danh tác, những tác phẩm đã ổn định về mặt đánh giá giá trị, nhà phê bình sẽ bị chụp ngay lấy cái mũ “rời bỏ trận địa văn học đương đại”, “chạy trốn, núp dưới cái bóng đổ của những tượng đài văn chương quá khứ” v.v... Những người buộc tội quên, hoặc không ý thức rằng, ở những mảnh đất đã bị cày đi xới lại ấy, đã bị khai thác đến mức tưởng như không thể khai thác thêm gì nữa ấy, sẽ là có giá nếu nhà phê bình phát hiện được cái gì đó mới mẻ. Và càng có giá hơn nếu từ đó nhà phê bình đề xuất được một cách tiếp cận mới đối với tác phẩm văn chương nói chung, một phương pháp mới mang tính năng sản.

Sự định hướng. Yêu cầu “định hướng” đặt nhà phê bình ở vị thế ông thầy của người sáng tác. Anh ta xác lập những mô hình chuẩn, những giá trị ổn định, và người sáng tác khỏi cần phải nghĩ ngợi, cứ dựa vào đó mà làm theo, như cậu học trò làm theo ông thầy giáo vậy. Nhìn từ giác độ lịch sử, điều này đã từng là một thực tế ở thời Hy Lạp cổ đại với công trình “Nghệ thuật thi ca” của Aristotles, và ở Trung Quốc cổ với công trình “Văn tâm điêu long” của Lưu Hiệp.

Hai nhà bác học này là những nhà lập pháp của hai truyền thống văn chương, họ đưa ra những khuôn mẫu thể loại và những thang giá trị thẩm mỹ bất biến. Tài năng của người sáng tác lớn đến đâu chính là căn cứ vào việc anh ta “làm theo” được đến đâu những khuôn mẫu thể loại ấy và chiếm lĩnh được đến đâu những thang bậc giá trị thẩm mỹ ấy. Đó cũng là câu chuyện trong văn chương Việt Nam một thời chưa xa: nhà phê bình chỉ đường cho người sáng tác, người sáng tác chỉ còn việc phải răm rắp đi cho đúng con đường ấy nếu anh muốn được công nhận. Phê bình văn học ở đây là lối phê bình chủ yếu dựa trên quyết định luận nhị nguyên: phản ánh trung thực/ phản ánh xuyên tạc, đúng/ sai, tốt/ xấu v.v...

Có thể nói, cái sự “định hướng” cho người khác phải “làm theo” của một thời như vậy đã trượt theo đà quán tính đến tận bây giờ và nó tạo thành thứ gánh nặng quá sức đối với nhà phê bình văn học. Bởi, về bản chất, nhà phê bình chỉ là một người đọc có nghề, một “siêu độc giả”, nếu muốn nhấn mạnh. Anh ta đọc tác phẩm rồi đưa ra “cái đọc” của mình về tác phẩm, như một tham khảo cần thiết đến mức nào đó đối với người sáng tác và với công chúng độc giả.

Điều này được khẳng định thêm bởi một sự thực cũng thuộc về bản chất, rằng mỗi một người sáng tác đều là Thượng đế của chính mình: anh ta sáng tạo thế giới văn chương của anh ta theo cách anh ta muốn, thế giới ấy có thể cùng một mô hình với những thế giới có từ trước đó, hoặc thế giới ấy đi ra ngoài chúng, nhạo báng chúng, phá vỡ chúng.

Tóm lại, người sáng tác không cần đến sự “định hướng” của nhà phê bình như một tất yếu, và nhà phê bình cũng không tất yếu phải coi “định hướng” như một thứ trách nhiệm mà mình phải thực hiện bằng bất cứ giá nào trong bất cứ trường hợp nào. Thiết nghĩ, để có thể tôn trọng nhà phê bình văn học và hoạt động phê bình văn học một cách đúng mức nhất, cần phải không được quên lời nhắc nhở của F.Engels: “Gọi sự vật bằng tên của nó và đặt nó vào đúng chỗ của nó”. 

Nguồn: https://cand.com.vn/Ly-luan/thu-bien-ho-cho-cac-nha-phe-binh-i702544/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm