TIN TỨC

Thương nhớ anh Duy

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-03-03 16:09:13
mail facebook google pos stwis
104 lượt xem

 Trần Thế Vinh

Tôi viết ra đây mấy lời tâm sự như thắp một nén nhang kính nhớ thương tiễn anh Duy về trời cùng đàn anh Lê Văn Thảo...

Nhà văn, đạo diễn Lê Văn Duy

Nhớ...lần đầu tiên tôi hân hạnh được gặp anh Lê Văn Duy vào cuối những năm 1986... Lúc ấy tôi là giám đốc Nhà Văn hóa huyện Tri Tôn. Lần này anh về Bảy Núi tìm tư liệu về thân nhân gia đình chị Sứ , tôi là người hướng dẫn anh đến gặp anh Phan Văn Mỳ (em thứ 6 của chị Sứ - Phan Thị Ràng), lúc này là bí thư Huyện ủy Tri Tôn...và anh em biết nhau nhiều lần sau nữa…

 

 Ấn tượng nhất với anh là cuối năm 2001, anh cùng đoàn nhà văn Tp.HCM vào Tri Tôn thực tế, tôi gặp và đón đoàn với tư cách là chủ nhà (vì lúc này tôi làm giám đốc Trung tâm VHTT-TDTT huyện). Tôi mới vừa ra mắt tập thơ “Bài Thơ Với Đất” còn nóng hổi, nên tôi rất mừng và tặng anh một quyển, không ngờ khi về Sài Gòn anh viết một bài giới thiệu cho tập thơ in trên Tạp chí Văn nghệ Tp.HCM...với tựa đề Trái Mai Đen. Rời sau một năm tức cuối năm 2022 tôi được cuộc điện thoại anh gọi: Em Bắt Gặp – Thế Vinh ơi...em chịu khó lên Sài Gòn một chuyến nhé, anh đã viết xong kịch bản Giới thiệu tác giả tác phẩm về em, vì đường xa máy móc còng kềnh anh em đoàn quay phim không tiện xuống quay ở Bảy Núi được, nên em chịu khó lên đây mấy anh quay luôn nhé ! Nghe tin anh – Đạo diễn kiêm nhà văn lại là giám đốc xưởng phim Nguyễn Đình Chiểu thời bấy giờ gọi tôi mừng quýnh lên...Và hôm sau tôi lên xe đò tới Sài Gòn gặp mấy anh… Hình như phim tư liệu này có tựa “Trần Thế Vinh với Bài thơ với đất”, tôi còn nhớ đạo diễn là anh Phước – người để tóc dài bới sau ót như một ông đạo ở vùng Ba Chúc quê tôi. Các cảnh quay ở tận ngoài Thủ Đức, vì ở đây còn có ruộng đồng lúa, cỏ cây tự nhiên… Sau hơn một buổi quay xong về nhậu tưng bừng ở nhà anh gì tôi quên tên mất - anh nói anh là con nhà văn Đoàn Giỏi, có người anh làm ở Cảng nên hôm đó nhậu toàn rượu ngoại và còn tặng tôi mang về một chai kỷ niệm...   

(Xin trích dẫn bài viết mà anh Duy viết về tập thơ tôi ra đây)

 

    TRÁI MAI ĐEN

   Lê Văn Duy, Saigon

 

 Thơ Trần Thế Vinh nay đã chín khi nhà thơ để lòng mình đồng cảm với cái đẹp, nỗi buồn của hạt mai đen rơi rụng vào mùa cuối Xuân.

Chàng trai cao gầy dẫn tôi đi qua dãy nhà mới cất khu đất xáng thổi xóm dân cư mới dọc kinh Tri Tôn chảy ra Cây Me. Cậu ta say sưa kể đủ thứ chuyện về Tri Tôn, kể lan man chuyện Bảy Núi thời chống Mỹ, chuyện đồi Tức Dụp. Tình yêu quê hương, yêu núi trong tim chàng trai làm tôi cảm mến. Cậu xưng tên là Trần Bắt Gặp, cái tên nghe lạ lẫm. Tình cờ trong một cuộc gặp gỡ của nhóm nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh với anh bí thư Huyện ủy Tri Tôn, nghe giới thiệu tôi đã từng có mặt trong lòng đồi Tức Dụp thời chiến tranh, lại là đạo diễn bộ phim tài liệu nhựa Những ngày ở Bảy Núi, cậu ta trố mắt ngỡ ngàng hối hả đi tìm gặp tôi. Tôi trở thành anh bạn vong niên của nhà thơ Trần Thế Vinh. Mỗi lần về An Giang, đến Bảy Núi tôi đều tìm gặp Vinh. Khi dự hội Đua bò bừa Bảy Núi, tôi thấy Trần Thế Vinh làm thành viên trong Ban tổ chức Hội đua.

 

Đường về Thất Sơn mây trời dựng

Nắng chồn chân. Núi đứng ngang tàng

Dốc cao theo dốc, chân chạm dốc

Thấp thỏm, bồi hồi khúc hạ san!

 

Đường về  Thất Sơn mây mấy tầng

Ôm chân đá. Phủ hồn cỏ lạnh

Hạt xiêu mạng nhện giăng trắng lối

Giũ áo phơi mưa gió độc hành.

 

Đường về Thất Sơn mây lẻ hàng

Trông qua lá nắng vàng khua động

Đâu tiếng núi âm âm xa thẳm

Lắng tim đơn những lần ngân vọng

 

Đường về. Đường về. Thất Sơn nam

Gió đưa mây ướt một phím đàn

Hề! Thân củi mục ôm chân đá

Lệ mây trời chen nắng tan.

                   (Đường về)

Đường về Bảy Núi xưa tôi phải băng rừng, bơi qua con kinh Vĩnh Tế có biệt danh kinh Vĩnh Biệt. Bây giờ tôi đi trên con đường tráng nhựa thẳng đến chân đồi Tức Dụp. Các phum sóc Ô Lâm, An Tức, Lạc Quới, Vĩnh Gia…chợ ven biên nay đã có điện. Khu dân cư, khu chợ  tránh lũ, dãy nhà sàn cột bê tông dọc dài dòng kinh thóat lũ thẳng ra miền biển phía Tây tổ quốc, đồng bào bồi hồi, nhớ ơn nên đặt tên kinh là kinh Võ Văn Kiệt.

 

Cái năm lũ chưa vào thềm

Trăng tháng chín

Biết ru đêm, tiễn chiều

Ra sông vớt nước tâng tiu

Ta chưa nỡ chạm vào điều thiêng liêng

Ngã ba dòng

Đó mái hiên

Trông qua gương nước biết duyên mình thành

 

Nhớ xưa con lũ về nhanh

Trăng như gần gũi

Chòng chành sóng đi

Neo tình theo nước từng ly

Từng ly thương nhớ sá  gì gió giông

 

Sáng nay

Đò ai cặp dòng

Chở đi một ánh trăng lòng của ta

Lúc mà lũ dữ sắp qua.

          (Tình trôi theo lũ)

 

Tôi bỗng bồi hồi nhớ cảnh các cô học trò áo dài trắng thướt tha dừng xe đạp trên bến phà qua cù lao Giêng đợi đò qua sông Hậu mênh mông mùa nước đổ. Tình yêu nhẹ nhàng trôi xuôi nhưng không dễ quên.

 

Về thăm bến lỡ đuôi cồn

Cây bần xõa tóc. Vô hồn. Biệt  tăm.

Trăng khuya khuyết ngọn sóng rằm

Sóng chơi vơi lạnh suốt năm canh đời

 

Ai buồn như phận cồn rơi

Ta buồn khóc nhớ khỏang trời bến sông . 

                                               (Bến cũ)

Đất cồn mới nổi để đám học trò rủ nhau đi tắm cồn. Mùa lũ, đất cồn biến mất, chỉ thấy trời nước mênh mông. Mùa tắm cồn nay chỉ còn trong nỗi nhớ ngày khai trường: ‘’Ai buồn như số phận cồn rơi!”.

Tập thơ “Bài thơ với đất của Trần Thế Vinh làm tôi nhớ chàng trai thơ ngây dạo ấy, giờ đã tuổi  ngoài 40. Tình yêu quê núi trong trái tim nhà thơ vẫn nồng nàn.

 

Nước đồng cắt  mặt trời xanh

Chênh vênh bóng núi

Chòng chành bóng trăng

Đêm vờn đuổi sóng lăn tăn

Nửa soi mặt lũ, nửa hằn vết mây!

 

Trăng nghiêng xuống vai em gầy

Đắm mình trên chiếc xuồng cây bềnh bồng

Ta làm sao vắng quạnh mông

Bên em chèo chống. Qua đồng lo toan

 

Núi cao, cao dáng mõi mòn

Trăng chênh chếch sáng giữa vòm nước đêm.

                                    (Trăng mùa lũ)

 

 Tôi nhớ cây mai núi mọc chênh vênh trên đỉnh núi Tô, có nhiều người hờ hững với trái mai đen, nhưng Trần Thế Vinh vẫn không quên.

 

Cánh mai đã rụng sau mùa

Nụ vàng theo ngọn gió thưa lên trời

Ta  người tiếc cánh hoa rơi

Hồn thơ vung vãi thành lời tháng giêng

 

Còn xanh sắc lá kim tiền

Vội làm cây đứng lỡ duyên bẹo người

Qua thời vàng rực xanh tươi

Đi tìm nơi tựa trêu ngươi trái  mùa

Âm thầm ra hạt mây mưa

Ngã xanh qua đỏ cho vừa lòng Xuân

Tháng hai trái chín lưng chừng

Đen màu nâu sẫm đất xuân trễ tràng

 

Ta nâng hạt nắng của làng

Đem gieo vào đất cho tan màu đời

Biết rằng rồi trái cũng rơi

Biết rằng đất ấy mai rồi lại Xuân

                        (Thơ tặng trái mai đen)

 

Thơ Trần Thế Vinh nay đã chín khi nhà thơ để lòng mình đồng cảm với cái đẹp, nỗi buồn của hạt mai đen rơi rụng vào mùa cuối Xuân./.

 

L.V.D

Bài viết liên quan

Xem thêm
Trong màu xanh Vàm Cỏ
Nhà văn Hào Vũ, sinh năm 1950. Quê quán: An Hải, Hải Phòng. Dân tộc: Kinh. Hiện thường trú tại 6/3 Cư xá phường 3, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984.
Xem thêm
Đỗ Thành Đồng và chuyển động đường thơ
Sau gần 15 năm đắm say đến điên cuồng với thi ca, nhà thơ Đỗ Thành Đồng, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đã xuất bản 7 tập thơ.
Xem thêm
Chuyện tình khó quên của Trịnh Công Sơn
Bài viết của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn
Xem thêm
Nhà văn Di Li: Tôi bị hấp dẫn bởi người đàn ông nhân văn, tử tế
Tôi nghĩ rằng, là người văn minh thì phải chấp nhận sống chung với sự khác biệt, tuy nhiên, sự khác biệt đó nếu không tốt, muốn người ta thay đổi thì mình sẽ góp ý. Và cách góp ý của mình cũng khá hài hước nên người nghe không mấy khi khó chịu.
Xem thêm
Người tốt trại Vân Hồ
Nhà văn Trung Trung Đỉnh, Giải A cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn, 1998 – 2000) với tiểu thuyết Lạc rừng. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Xem thêm
Nhớ nhà báo Phú Bằng
Đọc bác Phú Bằng từ lâu, khi tôi còn trực tiếp cầm súng ở Trung đoàn 174 Sư đoàn 5 thời chống Mỹ. Lúc ấy bác Phạm Phú Bằng là phóng viên báo QĐND được tăng cường cho báo Quân Giải phóng Miền Nam.
Xem thêm
Nhà văn - dịch giả Trần Như Luận với tác phẩm “Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh - Mỹ kinh điển, lừng danh”
Tháng Sáu 2022, trên Báo Thanh Niên rồi Tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, nhà báo Hà Tùng Sơn và nhà phê bình văn học Vân Phi giới thiệu tác phẩm thứ 7 của nhà văn Trần Như Luận (TNL): tiểu thuyết Gương Mặt Loài Homo Sapiens. Trước đó, anh từng gây tiếng vang nhờ giá trị đáng kể của bộ tiểu thuyết Thầy Gotama và 8000 Đệ Tử dày tới 1.200 trang, trình làng năm 2014. Chúng tôi cũng biết tới cả trăm tác phẩm dịch của anh, cả thơ và truyện, xuất hiện trên các tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, Văn nghệ Quân đội, Non Nước, Sông Hương, v.v… Xuân Giáp Thìn 2024, nhà văn ra mắt một “dịch phẩm” hoàn toàn mới: Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh – Mỹ kinh điển, lừng danh. Sách dày 320 trang, bìa bắt mắt. Sách được Liên hiệp các Hội Văn học-nghệ thuật Việt Nam thẩm định chất lượng và hỗ trợ kinh phí; NXB Hội Nhà văn cấp phép. Nhân một cuộc hẹn thú vị tại Quận 7, TP Hồ Chí Minh, trong một quán cà phê tao nhã, không bỏ lỡ cơ hội, tôi đã thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Xem thêm
Nhớ anh Mai Quốc Liên
Bài viết của nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Nhà văn Trầm Hương: Sứ mạng nhà văn là đi tìm những ẩn số
Hàng chục năm nay, nhà văn Trầm Hương (Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM) vẫn âm thầm theo dấu chân những anh hùng, người lính, mẹ liệt sĩ… để tìm nhân vật cho những trang sách của mình. Chị ghi dấu ấn đậm nét trong dòng văn học cách mạng hiện nay.
Xem thêm
Nhà văn Ann Patchett: Thời gian tuyệt vời nhất là ở trên máy chạy bộ và viết sách
Ann Patchett là nhà văn Mĩ, tác giả của 9 cuốn tiểu thuyết, 4 cuốn sách phi hư cấu và 2 cuốn sách dành cho trẻ em. Trong văn nghiệp, bà từng giành giải Orange cho Bel Canto, cũng như lọt vào danh sách chung khảo giải Pulitzer 2020 với cuốn Ngôi nhà của người Hà Lan. Gần đây bà đã cho ra mắt cuốn tiểu thuyết mới mang tên Tom Lake, và điều đặc biệt là nó được viết trên bàn đặt trên máy chạy bộ và lời khuyên về năng suất từ ​​Elizabeth Gilbert.
Xem thêm
Lê Minh Quốc và cuộc hành trình chữ nghĩa
Bài của nhà thơ Ngô Xuân Hội trên báo Văn nghệ.
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Thành Phong: Với chữ nghĩa, tôi như người đang yêu
Gọi Nguyễn Thành Phong là nhà thơ, nhà văn, biên kịch hay cái danh mà mang nhiều nghiệp nợ nhất là nhà báo, thì viết gì, dù là kiếm sống, anh cũng phải cố ở mức tốt nhất theo ý mình thì mới cho là được. Với chữ nghĩa, Nguyễn Thành Phong ví anh như người đang yêu, càng bị “ruồng rẫy”, càng thấy không thể bỏ cuộc.
Xem thêm
Vũ Cao - “Núi Đôi mãi mãi vẫn là Núi Đôi”
Nói đến nhà thơ Vũ Cao không thể không nói tới bài thơ Núi Đôi.
Xem thêm
Chính Hữu – Nhà thơ của các chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô
Với bài thơ Đồng chí (1948), nhà thơ Chính Hữu đã tạo một dấu ấn sâu sắc về vẻ đẹp bình dị mà cao cả của người chiến sĩ trong kháng chiến chống Pháp.
Xem thêm