TIN TỨC

Tôi đọc bài thơ Đừng sợ một mình của thi sĩ Trần Mạnh Hảo

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-02-14 17:28:32
mail facebook google pos stwis
1164 lượt xem

TUẤN TRẦN

Trần Mạnh Hảo và thơ ông đã sớm là “tín ngưỡng” đẹp nhất trong lòng của những người yêu thơ, quý chữ nghĩa chân chính. Từ thời còn trên giảng đường đại học, tôi đã từng nghe thầy tôi đọc những câu thơ trong trường ca Đất nước hình tia chớp. Từ đó, tôi bắt đầu săn sóc sự học, sự đọc về thơ ông.

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo

Thế nhưng, đọc thơ Trần Mạnh Hảo là một thách thức, chí ít với người trẻ. Dẫu vẫn là thơ đó, có đủ âm, hình, ý, vị. Dẫu khi đọc qua rất trôi chảy, tấm thảm thơ mềm mại không một gút sợi. Nhưng ẩn tàng trong cái diễn đạt với tư thái dân gian thấm đượm, mượt mà đó, là một đạo lớn xa xôi quá đỗi. Mà nếu không đủ vốn sống, vốn đọc, không đủ “ánh nhòm tỉnh thức” thì sẽ không thể nào đọc- cảm, thấu được tâm sự lòng riêng vì sự thể chung nơi thứ tiếng thơ nặng lòng non nước đó. Với tư cách là một người đọc bình dân, người đọc trẻ, người đọc còn nhiều năm tháng cho sự cúi mình đọc thiên hạ. Tôi, dẫu có “lo lắng” nhưng quyết tâm cho mọi nổ lực để “đọc” được thơ ông: Thứ chữ nghĩa vi diệu của nghệ thuật là công cụ để tỏ bày cái cao thâm triết học. Của “đạo lớn” nơi người thơ đã sống qua những thăng giáng cuộc đời, nếm trải bao bạc lãnh bể dâu cả trong đời lẫn trong thơ.

Với tâm thái một người yêu văn. Dưới góc độ là người trẻ luôn thường trực nỗi đau đáu cho sự đọc văn hôm nay. Nhân danh cá nhân, quan điểm cá nhân. Theo tôi, để kể ra những cái tên có tầm vóc qua từng thời đại trong VHVN, ảnh hưởng đến định hướng văn học và văn hóa trên sân khấu văn chương nước nhà thì đương đại cái tên Trần Mạnh Hảo được nhắc đến hàng đầu.

Trần Mạnh Hảo viết, viết khỏe, viết không ngừng nghỉ, không chỉ là thơ mà còn nhiều những lĩnh vực quanh thơ khác. Và đã đốn mấy mươi rừng trúc để tỏ tường. Nhưng chữ của Trần Mạnh Hảo không có chữ nào là thừa, là viết cho có, phải là chữ “bút tre mực tàu”, mực thước trên nhiều phương diện. Cảm tưởng như ông đang viết ngày càng thiết, từng giọt mồ hôi như giọt máu lớn đổ xuống trang giấy. Yêu thương cũng hết lời mà phàn nàn cuộc đời cũng cạn lẽ. Độ gần đây Trần Mạnh Hảo đã phóng tuyến cảm quan với biên độ rộng hơn, càng ngày càng đi về phía đầu mút vũ trụ ôm trọn, quan chiêm, thiết lập rất riêng thứ “Đạo” của thơ, trở thành niềm kính tín cổ điển đậm đà thấm thía trong đảng tranh đương đại. Trong khuôn khổ bài viết, trong sự đọc có hạn, tôi thành kính hiểu thơ ông ở những lời “bắt gặp hữu duyên” tạo ấn tượng nội tâm mạnh mẽ nhất trong quá trình trải nghiệm văn bản:

“Mặt trời quá vĩ đại
Hạt sương quá nhỏ nhoi
Mặt trời không mang nổi
Dù một hạt sương rơi
Nhưng trong hạt sương ấy
Có bao nhiêu mặt trời?”
(Mặt trời và hạt sương)

Cặp phạm trù trời- đất, âm- dương, tiểu- đại nhất thể theo quan điểm nhà Thích Ca. Triết thuyết đó hiện hữu trong thơ Trần Mạnh Hảo với những biến tấu và quy tụ. Mượn ảnh tượng mặt trời, như thủ pháp “tá khách hình chủ” trong cổ thi để ca tụng giọt sương, cổ vũ cho điều tầm thường lớn lao và cũng là cách để rẻ khinh cái hư vinh ở đời. Cái nhìn tỉnh thức đó đi từ chiều sâu bi kịch của nhân sinh. Bản thân mặt trời vẫn là mặt trời, còn giọt sương thì vạn năng, vạn trạng: sinh ra từ đất, tụ từ hơi, tự hủy mình dưới nắng và hẹn hò những khiếp sống bất tận. Giọt sương mới là cái vĩnh cửu trong cái thường hằng vũ trụ. Bởi sự hóa thân khôn lường của nó: Lủng lẳng đu mình trên gân lá, đọng trên hoa, lóng lánh trên lưới nhện giăng giữa trời, kết tạo từ trời đất, thấm lắng qua bao vỉa tầng đời sống vẫn vô nhiễm. Ôm mang, đựng chứa, phản chiếu, hắt bật… mặt trời rồi lại mang cái biểu tượng lớn lao của vũ trụ đó tịnh vào đất, vỡ tan. Giọt sương chính là một “giác giả” đã thấu triệt chân tướng thiên địa. Thơ Trần Mạnh Hảo đã không còn nằm lại ở thế sự hay có thể tùy tiện gắn mác chính trị. Nó là thứ thơ của quá trình vén bức mành vô minh, của sự nhập cuộc với hóa sinh- sinh hóa điên đảo mà thâu lượm thứ nghệ thuật ở trạng thái đẹp oai, trong sáng uyên nguyên nhất.

“Tưởng đã tận cùng vẫn hút sâu
Chân mây góc bể lại ban đầu
Ngoài tinh vân tới em nghìn tuổi
Chợt vị thành niên mắt biếc đâu?”
(Phục sinh)

Bài thơ là một nhận thức về cái siêu nghiệm của vũ trụ. Hay nói cách khác nó là vũ trụ luận. Nhưng cái luận ra được ở đây lại từ “em”. Hình ảnh mắt biếc và cái sâu hút của vũ trụ đồng hiện. Tinh vân là thứ bắt đầu của một vì sao hoặc cũng có thể là một vì sao “hóa bụi” kết thúc vòng đời của nó. Ngoài tinh vân là ngoài sự sinh- hóa đến em ngàn tuổi chỉ cái vòng lặp lại không biên độ, giới hạn, khái niệm, định nghĩa, điểm đi, đến, kết thúc của chữ “duyên” ở đời. Em dẫu có nghìn tuổi vẫn làm em trong một niên hạn thanh xuân. Bởi thời điểm đó chính là cái làm nên em. Bắt đầu của cái nẩy lộc, bật nhú những nụ chồi trinh nguyên. Trong ánh mắt biếc đó, dẫu đẹp, dẫu trong sáng vô ngần vẫn lóe lên những hạt bụi tinh vân, bụi của cái buồn, cái không thể nắm bắt, lý giải, cái vô hạn mà hữu hạn của đời người. Cái vòng tròn chuyển hồi mãi mãi không bao giờ kết thúc của vạn vật. Chính vì thế, chăng tác giả đặt dấu hỏi cuối bài thơ. Để muốn nói về phục sinh là nên buồn hay nên vui? Nên khóc hay nên cười? Đẹp đẽ và khổ đau. “Tưởng”- “chợt” cặp quan hệ mới được cấu trúc nói về cái “ngờ ngợ” nhân sinh. Bài thơ như một khu vườn có vô số lối vào. Một mảnh đất thật ngắn mà lớp lớp, luống luống những ý vị uẩn súc, mở ra muôn ngã nghĩ ngợi.

Cái “đạo” trong thơ Trần Mạnh Hảo còn được thể hiện chân xác qua hình tượng “Mẹ”. Trần Mạnh Hảo dành vô số lời để hát trong thơ về mẹ. Như kẻ hát sáo trên sông, mẹ trong thơ ông luôn gắn liền với những mênh mông, nơi có phù sa, bờ bãi, còm cõi môt nỗi chờ con đến “tím cả chiều hoang”. Người mẹ của thơ ông là người mẹ của đánh giặc. Người mẹ đi liền với hai từ “canh cánh”. Nỗi canh cánh thường trực, xuyên suốt, cả đời ôm mang thân phận kẻ sinh ra những đứa con “bất hiếu”: Ngày chiến thắng bỏ mũ, áo, danh vọng và sinh mệnh chẳng trở về bên mẹ để dựng vợ, sinh con và báo đền công sinh thành.

“Mẹ ở lại với mái nhà dột nóc
Ếch tháng ba kêu xót ruột người già
Mẹ khóc, mùi hoa xoan cũng khóc
Đêm đen từ tro bếp lạnh đen ra
Ôi Tổ quốc
Tiễn con đi mẹ gục xuống hiên nhà”
(Tổ quốc của tình yêu)

Hiện thân của mẹ trong thơ Trần Mạnh Hảo đọc lên không chỉ là khóc thương mà gợi nỗi hận bầm gan, ứa mật. Một thời đất nước đằm máu và nước mắt mẹ. Trong từng âm thanh tự nhiên đến những màu sắc cuộc sống đều hót lên tứa máu. Xé ruột mẹ già chờ con đến non mòn biển cạn. Trước nỗi chờ con đến ráo lệ hôm nay là “ngày xửa ngày xưa” mẹ đã chuyển sinh con nơi “địa gan”. Để chúng con “buộc phải” “chân trần chí thép”:

“Có phải mẹ Âu Cơ đi vòng trái đất
Để làm chỗ khai sinh con Lạc cháu Hồng
Mẹ đã tìm ra dải đất hình tia chớp
Chọn vùng tâm bão để sinh con”
(Trường ca đất nước hình tia chớp)

Những câu thơ ở độ khái quát tuyệt đối. Khái quát cái đỉnh cao của niềm tự hào cao đạo và nỗi đau bi lệ tận cùng của những đứa con được sinh ra nơi “Tâm bão”. Có người mẹ nào sinh con, yêu con được như thế! Khi đã chọn gửi con nơi dải đất hình tia chớp để hi sinh, để gánh vác, để trải qua những máu tươi diễm lệ và hồi sinh bất tử như hôm nay. “Tia chớp”, “Tâm bão” đã nói lên cái định mệnh “đáng nguyền rủa” của dân tộc này khi phải sống trong chiến tranh, thiên tai, ly loạn nhiều hơn sống trong hòa bình. Nhưng cũng chính từ cái định mạng vô tiền khoáng hậu đó đã tạo ra cho đất những con người chào đời với một sứ mệnh duy nhất và cao nhất là “đánh giặc” vì chân lý và chính nghĩa. Và trong cái tồn- vong của vạn vật, trải qua biết bao biến đổi bể dâu. Dân tộc này, tuy nhỏ bé, nhược tiểu vẫn tồn tại một cách nghiên ngang. Không ngừng tỏa bóng mát như cây đời phải luôn luôn đấu tranh với loài cỏ dại.


Hình ảnh mẹ dân gian, đi tìm nơi sinh con đã trở nên tầm khái quát vĩ đại, mang tầm vóc lịch sử và thời đại để nói về dân tộc anh hùng, ngàn năm không chịu khuất nhục trước “ngàn đao vạn đòn”. Sứ mệnh mẹ giao phó, các con không thể thoái thác. Và hình tượng mẹ dường như xuyên suốt các chương chuyện đời mà Trần Mạnh Hảo đã biên kể trong thơ, để muốn nói rằng “mẹ” luôn luôn bên cạnh, dõi theo bước chân trưởng thành của các con. Và mẹ hóa thân thành muôn hình hài, khả thể để nâng đỡ các con trong cuộc đấu tranh thành người đó. Mẹ mãi là vòng tay cho con nương náu, là sông dài, núi cao, địa hào, hầm hủ cho con trốn vào nơi mênh mông lòng mẹ:

“Trốn vào mẹ con trốn vào Nước Việt
Cả cuộc đời chạy trốn để sinh tồn
Súng vẫn nổ ngoài đầu làng khốc liệt
Đẻ con ra là mẹ hiến thân mình”
(Trốn vào mẹ)

Có thể nói người phụ nữ trong tương quan với sứ mệnh dân tộc được đặt lên tất thảy sự tôn vinh đẹp đẽ và cao đạo nhất. Những trang hùng ca trong hợp xướng đậm chất bi hùng về sự trường tồn bất tử của dân tộc nơi thơ Trần Mạnh Hảo luôn có hình ảnh “Mẹ”. Mẹ trở thành đạo lớn trong thơ, thành một thứ vũ trụ đủ sức dung chứa những nỗi niềm về đất, nước, con người.

“Chị làm dâu cuộc chiến tranh
Hòa bình khóc kẻ chưa thành lứa đôi
Hứa hôn với lính lâu rồi
Nghĩa trang chị bạc tóc ngồi làm dâu”

Với Trần Mạnh Hảo, tất cả người phụ nữ đều là mẹ. Họ xứng đáng là mẹ Việt Nam anh hùng. Chúng ta thường nhắc tới khái niệm hậu phương, thường ca ngợi mẹ. Nhưng có lẽ chưa bao quát được hết, một lực lượng vô hình những người “thiếu nữ” họ mới chỉ được nắm tay lần đầu và cũng là lần cuối. Để rồi người yêu, người chồng của họ ra đi, nằm lại trong thổ nhưỡng quê hương. Chính người “thiếu nữ” ngồi nghĩa trang làm dâu đó đã nuôi trong lòng bao người trai chí lớn một niềm tin son sắc, họ khao khát chiến đấu hơn bao giờ hết để nhanh trở về với người gái đang can trường, thủy chung đợi chờ.

Trần Mạnh Hảo đủ tư cách và thực tế đã là một tác gia. Nghĩa là một nhà văn hóa lớn. Bởi thơ ông đã tạo ra một nếp sống, nếp nghĩa cho thi dân, văn dân. Họ hướng về nơi ông như mảnh đất để ngợi ca, suy nghiệm, bảo tồn, tô bồi cho vẻ đẹp tâm hồn nơi họ và thể nghiệm, soi ngắm chính họ trong thơ. Chưa kể sự “chiếu tướng” của Trần Mạnh Hảo tới những “ngõ ngách” đời sống nhằm vén nhẹ, lột trần, phô bày những thực tại có cả đớn hèn và vô liêm sỉ của những lớp người. Sau tất cả, Trần Mạnh Hảo chỉ muốn đời sống “hảo”, hoàn thiện hơn, tốt đẹp hơn và ông đã nổ lực “cứu vớt” với sứ mệnh của mình.
Trân trọng!
 

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm