TIN TỨC

Tôi đọc bài thơ Đừng sợ một mình của thi sĩ Trần Mạnh Hảo

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-02-14 17:28:32
mail facebook google pos stwis
1639 lượt xem

TUẤN TRẦN

Trần Mạnh Hảo và thơ ông đã sớm là “tín ngưỡng” đẹp nhất trong lòng của những người yêu thơ, quý chữ nghĩa chân chính. Từ thời còn trên giảng đường đại học, tôi đã từng nghe thầy tôi đọc những câu thơ trong trường ca Đất nước hình tia chớp. Từ đó, tôi bắt đầu săn sóc sự học, sự đọc về thơ ông.

Nhà thơ Trần Mạnh Hảo

Thế nhưng, đọc thơ Trần Mạnh Hảo là một thách thức, chí ít với người trẻ. Dẫu vẫn là thơ đó, có đủ âm, hình, ý, vị. Dẫu khi đọc qua rất trôi chảy, tấm thảm thơ mềm mại không một gút sợi. Nhưng ẩn tàng trong cái diễn đạt với tư thái dân gian thấm đượm, mượt mà đó, là một đạo lớn xa xôi quá đỗi. Mà nếu không đủ vốn sống, vốn đọc, không đủ “ánh nhòm tỉnh thức” thì sẽ không thể nào đọc- cảm, thấu được tâm sự lòng riêng vì sự thể chung nơi thứ tiếng thơ nặng lòng non nước đó. Với tư cách là một người đọc bình dân, người đọc trẻ, người đọc còn nhiều năm tháng cho sự cúi mình đọc thiên hạ. Tôi, dẫu có “lo lắng” nhưng quyết tâm cho mọi nổ lực để “đọc” được thơ ông: Thứ chữ nghĩa vi diệu của nghệ thuật là công cụ để tỏ bày cái cao thâm triết học. Của “đạo lớn” nơi người thơ đã sống qua những thăng giáng cuộc đời, nếm trải bao bạc lãnh bể dâu cả trong đời lẫn trong thơ.

Với tâm thái một người yêu văn. Dưới góc độ là người trẻ luôn thường trực nỗi đau đáu cho sự đọc văn hôm nay. Nhân danh cá nhân, quan điểm cá nhân. Theo tôi, để kể ra những cái tên có tầm vóc qua từng thời đại trong VHVN, ảnh hưởng đến định hướng văn học và văn hóa trên sân khấu văn chương nước nhà thì đương đại cái tên Trần Mạnh Hảo được nhắc đến hàng đầu.

Trần Mạnh Hảo viết, viết khỏe, viết không ngừng nghỉ, không chỉ là thơ mà còn nhiều những lĩnh vực quanh thơ khác. Và đã đốn mấy mươi rừng trúc để tỏ tường. Nhưng chữ của Trần Mạnh Hảo không có chữ nào là thừa, là viết cho có, phải là chữ “bút tre mực tàu”, mực thước trên nhiều phương diện. Cảm tưởng như ông đang viết ngày càng thiết, từng giọt mồ hôi như giọt máu lớn đổ xuống trang giấy. Yêu thương cũng hết lời mà phàn nàn cuộc đời cũng cạn lẽ. Độ gần đây Trần Mạnh Hảo đã phóng tuyến cảm quan với biên độ rộng hơn, càng ngày càng đi về phía đầu mút vũ trụ ôm trọn, quan chiêm, thiết lập rất riêng thứ “Đạo” của thơ, trở thành niềm kính tín cổ điển đậm đà thấm thía trong đảng tranh đương đại. Trong khuôn khổ bài viết, trong sự đọc có hạn, tôi thành kính hiểu thơ ông ở những lời “bắt gặp hữu duyên” tạo ấn tượng nội tâm mạnh mẽ nhất trong quá trình trải nghiệm văn bản:

“Mặt trời quá vĩ đại
Hạt sương quá nhỏ nhoi
Mặt trời không mang nổi
Dù một hạt sương rơi
Nhưng trong hạt sương ấy
Có bao nhiêu mặt trời?”
(Mặt trời và hạt sương)

Cặp phạm trù trời- đất, âm- dương, tiểu- đại nhất thể theo quan điểm nhà Thích Ca. Triết thuyết đó hiện hữu trong thơ Trần Mạnh Hảo với những biến tấu và quy tụ. Mượn ảnh tượng mặt trời, như thủ pháp “tá khách hình chủ” trong cổ thi để ca tụng giọt sương, cổ vũ cho điều tầm thường lớn lao và cũng là cách để rẻ khinh cái hư vinh ở đời. Cái nhìn tỉnh thức đó đi từ chiều sâu bi kịch của nhân sinh. Bản thân mặt trời vẫn là mặt trời, còn giọt sương thì vạn năng, vạn trạng: sinh ra từ đất, tụ từ hơi, tự hủy mình dưới nắng và hẹn hò những khiếp sống bất tận. Giọt sương mới là cái vĩnh cửu trong cái thường hằng vũ trụ. Bởi sự hóa thân khôn lường của nó: Lủng lẳng đu mình trên gân lá, đọng trên hoa, lóng lánh trên lưới nhện giăng giữa trời, kết tạo từ trời đất, thấm lắng qua bao vỉa tầng đời sống vẫn vô nhiễm. Ôm mang, đựng chứa, phản chiếu, hắt bật… mặt trời rồi lại mang cái biểu tượng lớn lao của vũ trụ đó tịnh vào đất, vỡ tan. Giọt sương chính là một “giác giả” đã thấu triệt chân tướng thiên địa. Thơ Trần Mạnh Hảo đã không còn nằm lại ở thế sự hay có thể tùy tiện gắn mác chính trị. Nó là thứ thơ của quá trình vén bức mành vô minh, của sự nhập cuộc với hóa sinh- sinh hóa điên đảo mà thâu lượm thứ nghệ thuật ở trạng thái đẹp oai, trong sáng uyên nguyên nhất.

“Tưởng đã tận cùng vẫn hút sâu
Chân mây góc bể lại ban đầu
Ngoài tinh vân tới em nghìn tuổi
Chợt vị thành niên mắt biếc đâu?”
(Phục sinh)

Bài thơ là một nhận thức về cái siêu nghiệm của vũ trụ. Hay nói cách khác nó là vũ trụ luận. Nhưng cái luận ra được ở đây lại từ “em”. Hình ảnh mắt biếc và cái sâu hút của vũ trụ đồng hiện. Tinh vân là thứ bắt đầu của một vì sao hoặc cũng có thể là một vì sao “hóa bụi” kết thúc vòng đời của nó. Ngoài tinh vân là ngoài sự sinh- hóa đến em ngàn tuổi chỉ cái vòng lặp lại không biên độ, giới hạn, khái niệm, định nghĩa, điểm đi, đến, kết thúc của chữ “duyên” ở đời. Em dẫu có nghìn tuổi vẫn làm em trong một niên hạn thanh xuân. Bởi thời điểm đó chính là cái làm nên em. Bắt đầu của cái nẩy lộc, bật nhú những nụ chồi trinh nguyên. Trong ánh mắt biếc đó, dẫu đẹp, dẫu trong sáng vô ngần vẫn lóe lên những hạt bụi tinh vân, bụi của cái buồn, cái không thể nắm bắt, lý giải, cái vô hạn mà hữu hạn của đời người. Cái vòng tròn chuyển hồi mãi mãi không bao giờ kết thúc của vạn vật. Chính vì thế, chăng tác giả đặt dấu hỏi cuối bài thơ. Để muốn nói về phục sinh là nên buồn hay nên vui? Nên khóc hay nên cười? Đẹp đẽ và khổ đau. “Tưởng”- “chợt” cặp quan hệ mới được cấu trúc nói về cái “ngờ ngợ” nhân sinh. Bài thơ như một khu vườn có vô số lối vào. Một mảnh đất thật ngắn mà lớp lớp, luống luống những ý vị uẩn súc, mở ra muôn ngã nghĩ ngợi.

Cái “đạo” trong thơ Trần Mạnh Hảo còn được thể hiện chân xác qua hình tượng “Mẹ”. Trần Mạnh Hảo dành vô số lời để hát trong thơ về mẹ. Như kẻ hát sáo trên sông, mẹ trong thơ ông luôn gắn liền với những mênh mông, nơi có phù sa, bờ bãi, còm cõi môt nỗi chờ con đến “tím cả chiều hoang”. Người mẹ của thơ ông là người mẹ của đánh giặc. Người mẹ đi liền với hai từ “canh cánh”. Nỗi canh cánh thường trực, xuyên suốt, cả đời ôm mang thân phận kẻ sinh ra những đứa con “bất hiếu”: Ngày chiến thắng bỏ mũ, áo, danh vọng và sinh mệnh chẳng trở về bên mẹ để dựng vợ, sinh con và báo đền công sinh thành.

“Mẹ ở lại với mái nhà dột nóc
Ếch tháng ba kêu xót ruột người già
Mẹ khóc, mùi hoa xoan cũng khóc
Đêm đen từ tro bếp lạnh đen ra
Ôi Tổ quốc
Tiễn con đi mẹ gục xuống hiên nhà”
(Tổ quốc của tình yêu)

Hiện thân của mẹ trong thơ Trần Mạnh Hảo đọc lên không chỉ là khóc thương mà gợi nỗi hận bầm gan, ứa mật. Một thời đất nước đằm máu và nước mắt mẹ. Trong từng âm thanh tự nhiên đến những màu sắc cuộc sống đều hót lên tứa máu. Xé ruột mẹ già chờ con đến non mòn biển cạn. Trước nỗi chờ con đến ráo lệ hôm nay là “ngày xửa ngày xưa” mẹ đã chuyển sinh con nơi “địa gan”. Để chúng con “buộc phải” “chân trần chí thép”:

“Có phải mẹ Âu Cơ đi vòng trái đất
Để làm chỗ khai sinh con Lạc cháu Hồng
Mẹ đã tìm ra dải đất hình tia chớp
Chọn vùng tâm bão để sinh con”
(Trường ca đất nước hình tia chớp)

Những câu thơ ở độ khái quát tuyệt đối. Khái quát cái đỉnh cao của niềm tự hào cao đạo và nỗi đau bi lệ tận cùng của những đứa con được sinh ra nơi “Tâm bão”. Có người mẹ nào sinh con, yêu con được như thế! Khi đã chọn gửi con nơi dải đất hình tia chớp để hi sinh, để gánh vác, để trải qua những máu tươi diễm lệ và hồi sinh bất tử như hôm nay. “Tia chớp”, “Tâm bão” đã nói lên cái định mệnh “đáng nguyền rủa” của dân tộc này khi phải sống trong chiến tranh, thiên tai, ly loạn nhiều hơn sống trong hòa bình. Nhưng cũng chính từ cái định mạng vô tiền khoáng hậu đó đã tạo ra cho đất những con người chào đời với một sứ mệnh duy nhất và cao nhất là “đánh giặc” vì chân lý và chính nghĩa. Và trong cái tồn- vong của vạn vật, trải qua biết bao biến đổi bể dâu. Dân tộc này, tuy nhỏ bé, nhược tiểu vẫn tồn tại một cách nghiên ngang. Không ngừng tỏa bóng mát như cây đời phải luôn luôn đấu tranh với loài cỏ dại.


Hình ảnh mẹ dân gian, đi tìm nơi sinh con đã trở nên tầm khái quát vĩ đại, mang tầm vóc lịch sử và thời đại để nói về dân tộc anh hùng, ngàn năm không chịu khuất nhục trước “ngàn đao vạn đòn”. Sứ mệnh mẹ giao phó, các con không thể thoái thác. Và hình tượng mẹ dường như xuyên suốt các chương chuyện đời mà Trần Mạnh Hảo đã biên kể trong thơ, để muốn nói rằng “mẹ” luôn luôn bên cạnh, dõi theo bước chân trưởng thành của các con. Và mẹ hóa thân thành muôn hình hài, khả thể để nâng đỡ các con trong cuộc đấu tranh thành người đó. Mẹ mãi là vòng tay cho con nương náu, là sông dài, núi cao, địa hào, hầm hủ cho con trốn vào nơi mênh mông lòng mẹ:

“Trốn vào mẹ con trốn vào Nước Việt
Cả cuộc đời chạy trốn để sinh tồn
Súng vẫn nổ ngoài đầu làng khốc liệt
Đẻ con ra là mẹ hiến thân mình”
(Trốn vào mẹ)

Có thể nói người phụ nữ trong tương quan với sứ mệnh dân tộc được đặt lên tất thảy sự tôn vinh đẹp đẽ và cao đạo nhất. Những trang hùng ca trong hợp xướng đậm chất bi hùng về sự trường tồn bất tử của dân tộc nơi thơ Trần Mạnh Hảo luôn có hình ảnh “Mẹ”. Mẹ trở thành đạo lớn trong thơ, thành một thứ vũ trụ đủ sức dung chứa những nỗi niềm về đất, nước, con người.

“Chị làm dâu cuộc chiến tranh
Hòa bình khóc kẻ chưa thành lứa đôi
Hứa hôn với lính lâu rồi
Nghĩa trang chị bạc tóc ngồi làm dâu”

Với Trần Mạnh Hảo, tất cả người phụ nữ đều là mẹ. Họ xứng đáng là mẹ Việt Nam anh hùng. Chúng ta thường nhắc tới khái niệm hậu phương, thường ca ngợi mẹ. Nhưng có lẽ chưa bao quát được hết, một lực lượng vô hình những người “thiếu nữ” họ mới chỉ được nắm tay lần đầu và cũng là lần cuối. Để rồi người yêu, người chồng của họ ra đi, nằm lại trong thổ nhưỡng quê hương. Chính người “thiếu nữ” ngồi nghĩa trang làm dâu đó đã nuôi trong lòng bao người trai chí lớn một niềm tin son sắc, họ khao khát chiến đấu hơn bao giờ hết để nhanh trở về với người gái đang can trường, thủy chung đợi chờ.

Trần Mạnh Hảo đủ tư cách và thực tế đã là một tác gia. Nghĩa là một nhà văn hóa lớn. Bởi thơ ông đã tạo ra một nếp sống, nếp nghĩa cho thi dân, văn dân. Họ hướng về nơi ông như mảnh đất để ngợi ca, suy nghiệm, bảo tồn, tô bồi cho vẻ đẹp tâm hồn nơi họ và thể nghiệm, soi ngắm chính họ trong thơ. Chưa kể sự “chiếu tướng” của Trần Mạnh Hảo tới những “ngõ ngách” đời sống nhằm vén nhẹ, lột trần, phô bày những thực tại có cả đớn hèn và vô liêm sỉ của những lớp người. Sau tất cả, Trần Mạnh Hảo chỉ muốn đời sống “hảo”, hoàn thiện hơn, tốt đẹp hơn và ông đã nổ lực “cứu vớt” với sứ mệnh của mình.
Trân trọng!
 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm