TIN TỨC

Tôn thờ mảnh hồn quê thô mộc mà thiêng liêng trong Vẽ nhớ”

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-12-26 22:46:38
mail facebook google pos stwis
307 lượt xem

TUẤN TRẦN

Tôi nhận được tập thơ đó ở một nơi mù sương, ngồi dưới hàng thùy dương ngắm hoa vàng mấy độ. Trời Đà Lạt ngày đông tháng giá vẫn quện hương mùa. Tôi đọc không "trật nhịp". Ấn tượng nội tâm đầu tiên với "Vẽ nhớ" là nét bút thấm đẫm hương quê vị quán. Giữ gìn, góp nhặt những động lay đời người nỗi lòng và tri âm thù tạc về kí ức bên những chốn lưu neo thân thiết của tuổi thơ đầy vị lá chanh, lá sả đượm trong những sợi tóc. "Vẽ nhớ” vẽ ra một thời/ không gian nhiều nhịp "lỡ”, nhiều những nhớ/ quên, quyện trong "mùi sữa thơm nồng”. Nhưng chẳng quên được cái đói nghèo tạo tác hồn thơ đóng cặn u bần: “Cái nghèo buộc con biết mặc niệm về hướng núi”

Thanh thoát, nhẹ nhàng, trầm tư, ưu nhã nhưng nhiều nỗi "bồn chồn": Nỗi bồn chồn mang tên Thanh Hoàng. Tâm sự lòng riêng của một hồn thơ chọn vị trí kẻ làm "con" để tạo tác cái đẹp "nén đau": "Cắm đũa thay nhang" gọi cha; trong "mê cung cung những nếp nhăn hằn sâu trên gương mặt mẹ"; hay phút giây "lật cửa sổ đề thơ cho hoa cho bướm" ghé nghe, đón nhìn,... Mẹ, cha, thầy cô, tâm hồn xa xứ,... tất cả đều "sướt mướt" giọt lệ nhân sinh nhưng tiếng thơ đồng vọng "ủi an" những phận đời, kiếp người đã sống được qua những tang tóc, những mục rỗng, giòn xốp, gánh ghì số phận, dọc đường đất nước chôn những "Cuống rốn” nỗi “trốn chạy ngang trời”.

Bọc sau lớp lang làng quê thanh bình yên ả, bờ tre mái rạ và những ngày tuổi thơ cắp sách tới trường là "vết sẹo dấu đuôi trâu". Là những gấp gáp, bức bối trốn tìm danh phận, mưu cầu đói no để một đôi lần được ngược đò “Đà Nẵng, Sài Gòn rủ nhau bốc vé” tìm về quê mẹ, trải ra trăm nhớ ngàn thương. Là một khung cảnh của dấu vết nỗi nhớ những tưởng lặng lẽ, mong manh mà rung rinh, cựa quậy dòng nhựa sống giữa chính tâm hồn đang lên sắc lên thì “Trong biếc suối đầu nguồn”. Phác thảo “Vẽ nhớ” đẹp “Như tình ta thưở ấy” bởi nhặt gom những “bình minh trong mưa”, chắt chiu nồng đượm để son sắt thủy chung với hiếu, tình và cả “nỗi thương mình”: "Mơ xứ người dẫu một mái nhà tranh/ Hai trái tim quê đã nhạt màu xóm trọ”. Những dòng thơ không phô diễn tính học thuật hay ý thức tĩnh lược câu từ để ra cái thô mạc, lối kể chuyện đủ tâm tình và thấm đau: “Chim dồng dộc xây nhà gửi con lời khiêu khích/ Con rón rén rời làng trăng xuyên vách gió”.

Giăng bày trong thơ là thói quê nếp cũ, những yên vui lặng lẽ, những nhịp đời thâm trầm, những loại/ hạng người bám neo nơi đồng xanh, quánh vắng. Họ mới thai sinh "Đã biết cúi rạp mình né đạn bom". Và rồi tất cả những góp nhặt sống sượng nơi những luống cày, bùn cát ngô khoai đã tạo nên một duyên thơ, duyên quê đẹp đẽ, thật thô mộc, thân quen rồi đến suồng sã “Tau- mày”. Và thật đắng đót chẳng mấy ngọt lành, thơm tho...Thơ mở cánh cửa lòng ăn bắt vào thế giới của tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, dạt dào yêu thương, trân trọng, thao thiết. Cuộc gặp gỡ xôn xao, dồn đọng, xót xa giữa người và quá khứ. Một ánh nhìn trìu mến đón lấy kí ức, nỗi nhớ giao hòa, quấn thít, phập phồng chìm lặn. Tình quê chứa chan và nỗi bồn chồn xa xứ quyện bện, tôn bồi và vun đắp cho nhau. Trước cái đau thương của đất nghèo, những phận bọt bèo trôi nổi là một tấm lòng dịu dàng, biết nâng niu, giàu chở che sẽ trở về thắm lại cô quán. Vẫn "nhớ quê mùi em thơm". Dẫu đã cán đứt tình xưa nghĩa cũ để: "Tình tang, ôi tình tan/Ta bỏ làng đi biệt/ Mùi trâu còn mãi miết". Rồi đã chênh chao, lỡ nhịp vì cánh hoa rung rinh, mơn mởn ban mai để "Rót mời em chén thơ" bao thổn thức một thời.

Chuyện quá khứ, nhớ thương nằm trong chuyện người đau. Chuyện về những khúc ngoặt, rẻ ngang cho bao cảnh cũ, người xa, những bứt lìa, mong mỏi. Thơ đã chạm khảm một nỗi tê buốt, rục rỗng tâm can kẻ "Nhón chân hóng cội nguồn/ Nhau con chôn ở đầu chuông nẩy chồi". Nỗi nhớ trên những bức vẽ thẩm ướt ăn ngấm dần lâu làm thân thêm bấy trần, mong manh chẳng đặng ngăn nổi cơn dâng ứa tàn tích để lại. Khóc cho một sự nên duyên mình có dịp hạnh ngộ, vội nắm tay nơi bờ dậu, bụi chuối rồi thân đày biệt xứ: "Cây tình toàn trái trái ngang trĩu mùa".

Vẽ mẹ, quê, tình thầy, nghĩa trò rồi tác giả vẽ mình với “giọt lặng thinh” sao bao thập kỉ phong trần/ nông sâu trâng trối trần ai... Những giọt lệ đã thôi ngưng giờ ủ rũ cay mắt mọng mi. Vẽ mình đã quên hết chuyện đời chỉ còn nhớ mẹ duy nhất. Vẽ mình đinh găm đậm đầy gót giày nhân sinh. Vẽ mình “Hóa Trang” thành “nước mắt, nụ cười” để hiểu đời mẹ “ngày cũng như đêm/ rất dài”. Vẽ mình tốt bụng lòng chẳng tỵ hiềm: "Ganh sao được với đứa/ Xưa vốn nghèo như mình”. Vẽ mình hòa vào chính nhánh sông, thảo thơm bất tận những tấm lòng...

"Vẽ nhớ" là tiếng khóc của người thả gánh vẫn ôm mang, cho người níu giữ những điều vương sót nơi vú mẹ "Dẫn đường tôm tép vào dòng sữa thơm". Điều chi khiến con người không thể lau xóa những "vết sẹo dấu đuôi trâu" dẫu đã nếm trải bao nhọc nhằn tha phương vẫn không thoát nổi nỗi sợ "ánh mắt mẹ buồn". Cái "tự vuốt mắt" xiết thấu oan khiên, nhói buốt nỗi tồn tục, dáng lưng chừng "ly nghiêng", hương nửa đời tuổi trẻ bên quê mẹ như "khói mây" vẫn dợn dạo trong tâm trí không "dây" nào thể neo buộc… Hình ảnh mẹ cố cự "níu núi rừng" mà "chắn gió bão để đừng lạnh con. Nhưng ai che chắn ngọn bấc để ngọn đèn mẹ gieo leo trước gió khỏi nỗi niềm hiu hắt? Hồn thơ đó đã dùng cả "tâm cơ" để chăm chút, tạo dựng vườn "Rằm" tỏa bóng hương người sau bao nhịp thổn thức, bâng khuâng một cõi riêng nhớ nằm trong dấu ngoặc để chú mục sự tha mang tình hiếu tử "(chắc cha mẹ mau quên nên chẳng một lần đòi).

Bức vẽ cuối cùng về nghĩa vợ tình chồng. Vẽ gia đình mái nhà nghiêng nghe mưa nắng. Vẽ lẽ ghét thương, trách “phận trai chìm nổi” thương phận gái tựa nương bên người chồng tiền đồ lúc nào cũng “xuống chó”. Giờ đã qua đi cái thời mạt rệp. Giọng thơ trở lại cái dân dã với phong cách sinh hoạt đời thường, lấy hình ảnh đề huề con cháu, vun vén niềm vui trên đôi bàn tay rưng rưng đặt vào chiếc nhẫn cưới lại từ đầu...Có chút “ngập ngừng”, “thẹn thùng” phảng phất trên thềm nhớ”.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tôi đọc bài thơ Đừng sợ một mình của thi sĩ Trần Mạnh Hảo
Trần Mạnh Hảo và thơ ông đã sớm là “tín ngưỡng” đẹp nhất trong lòng của những người yêu thơ, quý chữ nghĩa chân chính. Từ thời còn trên giảng đường đại học, tôi đã từng nghe thầy tôi đọc những câu thơ trong trường ca Đất nước hình tia chớp. Từ đó, tôi bắt đầu săn sóc sự học, sự đọc về thơ ông.
Xem thêm
Hoàng đế Quang Trung, danh tướng bách chiến bách thắng
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, hiếm có một anh hùng nào như Hoàng đế Quang Trung, xuất thân áo vải, cả đời chinh chiến, danh vang bốn biển, đánh giặc lập nước, tôn vinh văn hiến, khuyến học khuyến tài, những bậc quốc sĩ danh thần cảm phục uy danh mà theo về giúp rập. Đặc biệt, trong hai lần đại phá quân Xiêm La và quân Thanh, ông đã bằng vào tài năng quân sự thiên bẩm của mình, đánh cho lũ giặc phía Nam, phía Bắc phải kinh hồn táng đởm. Ông từng hào sảng tuyên ngôn trong Chiếu xuất quân khích lệ tướng sĩ khi hành binh ra Bắc Hà đánh tan 29 vạn quân Thanh
Xem thêm
Mùa Xuân trong thơ Dương Xuân Linh
Bài viết của nhà thơ Phùng Hiệu
Xem thêm
Xuân về, đọc thơ Trương Nam Hương
Tuấn Trần viết về tập thơ “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương
Xem thêm
Tình yêu bển đảo trong thơ Lê Tiến Lợi
Nhà thơ Lê Tiến Mợi là một trong những người gắn bó lâu năm với nghiệp văn chương. Anh đã có số lượng tác phẩm khá lớn, trong đó một số sáng tác của anh đã chiếm được cảm tình của người đọc. Sau đây xin trân trọng gửi tới Ban Biên tập Văn chương thành phố Hồ Chí Minh bài viết về tình yêu biển đảo trong thơ anh. Xin chân thành cảm ơn Ban Biên tập khi được cộng tác với Văn chương thành phố Hồ Chí Minh.
Xem thêm
Mảnh trăng tinh tấn hàng cau trổ buồng
Cảm nhận về tập thơ SỰ MẤT NGỦ CỦA LỬA của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Kẻ cày mây thu và gieo trồng muôn dặm sao
Bài viết của Tuần Trần về tập thơ “Những đám mây mùa thu” của Trần Quang Khánh
Xem thêm
Trịnh Bích Ngân, người đi tìm ngôi đền thiêng tâm thức
Bài viết của nhà thơ Hương Thu về tập thơ “Nghiêng về phía nỗi đau”
Xem thêm
Lục bát thiền trong miền đồng điệu và đồng cảm thi ca
Lục bát thiền là nét đặc trưng cơ bản được tác giả Trần Lê Khánh chắt chiu thể hiện qua tập thơ ‘Đồng’ do Nhà xuất bản Văn Học ấn hành.
Xem thêm
Hành trình trở về trong chùm thơ Phạm Thanh Bình
Những ngày cuối năm, khi mùi Tết đã phảng phất đâu đó, tôi bỗng nhận được chùm lục bát của nhà thơ Phạm Thanh Bình ở thành phố Hồ Chí Minh gửi tặng. Thật lạ, giữa thành phố ồn ào náo nhiệt vậy mà từng câu thơ lục bát vẫn trong trẻo chân quê. Bao hình ảnh về cảnh quê, Tết quê dường như cứ thao thiết chảy trong dòng cảm xúc thương nhớ của nhà thơ. Tôi cũng là người xa xứ cùng thế hệ với tác giả nên đọc thơ mà cảm thấy lòng mình cứ nao nao nỗi nhớ cố hương.
Xem thêm
Nguyễn Bình Phương, nhà thơ chơi chữ họa lên tương phản thực hư của hiện thực huyền ảo
Thơ Nguyễn Bình Phương không dễ đọc. Sáng tác của ông không hướng tới công chúng xã hội mặc định thường giới, mà cho một tầng tinh anh chỉ định, dù thơ ông chính là trữ tình tự sự, câu nào cũng dựng hình ảnh biểu tượng.
Xem thêm
Từ một trang văn Trang Thế Hy
“Tiếng sấm Đồng Khởi” Bến Tre (1960) âm vang dai dẳng dồn dập nhiều năm khiến chế độ cộng hòa đương thời còn chịu sự tác động ngoại lai phải kinh hoàng lo sợ, tiếp tục bắt lính khắp nơi để tăng quân, không chừa cả sinh viên, giáo viên ở các trường học. Năm 1963, bị gọi đi trình diện học sĩ trù bị, tôi âm thầm trốn học trò và hiệu trưởng, rời bỏ Trường Trung học Long Mỹ - Cần Thơ (nay thuộc tỉnh Hậu Giang) - một huyện lỵ xa, lánh về Cần Thơ xin dạy Việt văn tại Trung học Tư thục Thủ Khoa Huân tại đường Thủ Khoa Huân (Cần Thơ) của ông Trần Đình Thân. Tình cờ, không, phải nói là may mắn, tôi được gặp một bài văn của Trang Thế Hy mà không rõ vì lý do nào, soạn giả lại không ghi xuất xứ. Đoạn văn được nhà văn, nhà giáo yêu nước Thẩm Thệ Hà (1) biên soạn, đưa vào quyển Giảng văn lớp Đệ Lục (nay là lớp 7) do nhà xuất bản Sống Mới ấn hành năm 1962. Nhan đề bài giảng văn là “Con người quả cảm”.
Xem thêm
“Bình yên từ phía quê nhà” của Nguyễn Văn Hòa
Cầm cuốn tản văn nho nhỏ trên tay: “Bình yên từ phía quê nhà”, giữa chốn nhộn nhịp của đất Sài Gòn, mà trong lòng tôi cảm thấy có một điều gì đó rất đỗi là chân quê, rất đỗi là an yên trong tâm hồn của một con người, khi bản thân chúng ta luôn quay cuồng với những tất bất hơn thua, cố gắng, lăn lộn ngoài đời sống, để đi tìm những giá trị vật chất hay tinh thần nhằm thỏa mãn những ham muốn khát vọng ở đời thường, thì khi đọc bình yên từ phía quê nhà, chúng ta dường như, hoặc đã có trong tay liều thuốc cho sự tự chữa lành, cho việc quân bình, cân bằng lại trong cuộc sống.
Xem thêm
Có một buổi chiều như thế!
Đọc bài thơ “Thơ viết chiều cuối năm” của tác giả Ngô Minh Oanh
Xem thêm
Nhà thơ Quang Chuyền - nhìn trời thấy hiện dòng sông
Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 157, ngày 2/1/2025
Xem thêm