TIN TỨC

Trái tim đập nhịp Cửu Long Giang

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-02-26 10:31:56
mail facebook google pos stwis
1393 lượt xem

Tác phẩm đoạt Giải thưởng dành cho Tác giả trẻ Hội Nhà văn Việt Nam năm 2022

TRẦN MAI HƯỜNG

Chín nhánh da vàng là tác phẩm thứ tư của nhà thơ Khét (Trần Đức Tín), cũng là tác phẩm đạt Giải thưởng tác giả trẻ năm 2022 của Hội Nhà văn Việt Nam. Ở đây ta bắt gặp một giọng thơ khá lạ, đầy chiêm nghiệm, bứt phá và độc đáo, một nhà thơ rất nỗ lực trong hành trình chữ nghĩa để kết tinh và phát sáng.

Mở bài thơ đầu đọc câu kết như một câu hỏi lớn: “Điều giỏi nhất của giống loài mình là làm đau người khác/ phải không tôi…. Phải không tôi, phải không chúng ta, và câu hỏi ấy đã dẫn tôi đi chậm và nhiều phút nghỉ trong miên man Chín nhánh da vàng... Trần Đức Tín, bằng sự nhạy cảm thiên bẩm, từ tấm lòng yêu quê thổn thức đến cuộc mưu sinh nhọc nhằn giữa bao la thiên nhiên nơi anh đã sinh ra và lớn lên, trên sông nước và nắng gió Miền Tây sẵn lòng rộng mở, đã đưa Khét về một vùng mới lạ của thơ... Nơi những kẻ mạnh luôn tìm mọi cách để lấn át kẻ yếu thế hơn mình: “Cũng đừng hỏi tôi đi đâu trong ngày tháng bỏ quê/ chân tôi bỏng rát giữa lòng người chật hẹp/ trăng đêm này đã có từ thiên thu trăng trước/ chỉ lòng ta thay đổi” - (Giống loài).

Thơ Trần Đức Tín canh cánh một nỗi lòng lo lắng cho quê hương, thổn thức cùng xứ sở và đồng bào. Một Khét sâu sắc, một Trần Đức Tín thâm trầm, những câu hỏi ngàn năm chưa có lời giải đáp nhưng lại chẳng có ẩn số bao giờ... Chàng trai tự nhận là kẻ tha phương song chưa một phút rời bỏ xứ sở dấu yêu đầy bất ổn và nhiều thương đau của mình: “Tôi nhớ Cà Mau - mưa đầu mùa rát mặt trên bùn lầy ảm đạm xứ u minh tuổi thơ tôi nguệch ngoạc vết ngang những con còng heo hút gió bông tràm réo gọi” - (Tôi với Cà Mau cùng nhịp thở long đong).

Trong hành trình nhọc nhằn chữ nghĩa, Trần Đức Tín đã đi khá xa trên con đường thi ca của riêng mình. Trong ngút ngàn thơ ca hiện đại, không dễ để có một giọng điệu riêng, sự khổ luyện không đủ, tài năng thiên phú là đương nhiên, người thơ còn cần phải có sự nhạy cảm của một tấm lòng, một tâm hồn, một nỗi đau hướng về cội nguồn, xứ sở quê hương và con người..., dường như Khét đang có được điều đó. Những câu thơ cứ lấp lánh trên cuộc rong chơi kiếm tìm mênh mông ấy: “ngủ hết đêm nay với vàm cỏ/ thương những bóng ma trôi trên sông/có khi/ ta ngừng thở để sống/ có khi/ ta tự sinh ra mình” - (Ngủ hết đêm nay với Vàm Cỏ).

Có một điều gì đó mênh mang diệu vợi và sâu thẳm trong câu thơ như một triết lý mà không phải vậy, chỉ có thể là nỗi đau quên mình để hướng tới lòng nhân, hướng về lẽ phải trên đời: “loài người sinh ra/ để lẩn trốn/ nghệ thuật sinh ra/ để đào thoát/ và tôi ngồi đây ăn bóng mình/ còn một mùa đau gieo vào đất/ mấy ngàn năm chưa ai đến gặt” - (Khi ta viết chữ).

Những ẩn ức và cả sự mơ hồ bất chợt đã tạo nên một Trần Đức Tín mang dáng dấp điêu linh, siêu thực và luận lý trong những nét phác thảo vẫn cứ rõ ràng. Anh làm thơ, viết thơ như một “bản mệnh” đất trời sai khiến; giữa đúng sai, thực ảo, vui buồn, sướng khổ, khi chân lý cứ luôn là ảo ảnh ám ảnh phía xa vời. Chữ nghĩa được gieo mầm như vốn vậy, công phu “tỉa cành bắt sâu” không phải là sở trường của nhà thơ mang bút danh Khét bởi chất liệu nơi đó dường như đã được “sàng” qua những trải nghiệm đớn đau cùng với quan niệm rõ ràng, thơ không có sai hay đúng. 

Tôi vừa đi vừa thắp lửa / đôi lần/ tôi thấy tôi chết/ để được sống/ bước chân ai đã giẫm lối vào lòng/ đêm nay/ nghe lặng lẽ trổ bông” - (Đi như cỏ).

Chỉ có tiếng lòng từ trong sâu thẳm của lý trí cất lên, không sợ hãi hay lo lắng mơ hồ, người đọc có thể cảm nhận hay hiểu đến bao nhiêu là tùy, nhà thơ đã, đang và chỉ là kẻ truyền dẫn ngôn từ đấy thôi... Một cách để những câu thơ ra đời thật thú vị và thi vị; điều này hình như chỉ có ở nhà thơ trẻ tuổi: “không có cái chết của chánh niệm/ ta từ bi ta hơn nửa đời/ bàn tay lúa nước, da vàng, diều giấy/ mọc vào khoảng trống tổ tiên” - (Chánh niệm).

Ở nhiều bài trong Chín nhánh da vàng, một tư duy ngỡ như mung lung, đa chiều nhưng người đọc vẫn cảm nhận được nỗi lòng cô độc, thiên hướng cội nguồn và tình yêu cuộn chảy tiếc thương của thi sĩ với lịch sử bi hùng của quê hương, đất nước, giống nòi; mà ở nơi đó, sự hùng tráng và bi tráng cứ luân phiên đổi ngôi cho nhau: “trăng quê mình mắc cạn ở sau lưng/ có bụi lục bình trôi vào áo mẹ tôi rồi bật khóc/ chiếc áo màu nâu lặng câm như tràng hạt/ bay ra đồng rồi củi lửa lưng trời/chúng con: bọn bỏ quê/ quê trôi trên đầu/ quê bạc theo tóc/ trong đau đớn kiệt cùng/ trăng gọi mẹ/ bằng một tiếng chuông hoang” - (Trăng quê).

Hiển hiện trong thơ Trần Đức Tín luôn là quê hương với ngàn vạn nỗi niềm, quê hương nhỏ và quê hương lớn cứ là muôn nỗi xót xa. Xót xa cho mình, cho người, cho những thân phận bỏ quê, bỏ xứ sở ra đi bởi những biến động thời cuộc và bởi cả cuộc mưu sinh mệt nhoài áo cơm. Những cuộc ra đi hay lui về đều nhọc nhằn như nhau, thậm chí là cả nước mắt và sự tiễn biệt thương đau: “loài người/ hồi hương giấc mơ/ bằng cách/ di cư nó/.../ một ngày tháng bảy năm hai không hai mốt/ tôi hồi hương giấc mơ/ bằng cách/ vấn khăn tang cho mình” - (Một ngày).

Và, nỗi đau thắt tim từ mấy chục ngàn linh hồn đã bay cùng mây trắng trong đại dịch Covid-19, những cột khói trắng trời thay những dải khăn tang, phải chăng những linh hồn ấy đã nhập vào thơ anh quằn quại trong ngày tưởng niệm những số phận oan khuất ấy: “ngày mười chín tháng mười một/ ngồi đối diện với những con số/ những con số nhuộm trắng thành phố quấn đứa trẻ mồ côi/ hai mươi ba nghìn ngọn nến không thiêu được nước mắt/ hai mươi ba nghìn ngọn nến bỏng rát lưng quê hương/ ai đốt giấc mơ bằng ngọn nến lòng ta đầy khăn tang/ người có về với mẹ những mô đất ven làng/ con số lặng thinh găm vào bốn nghìn năm cúi mặt/ vàng lên đời chúng ta/ tôi bày ra lòng một nghĩa địa liệm thêm đôi mắt mình…”.

Từ trong những điều cụ thể nhất, Trần Đức Tín vẫn khái quát được mọi câu chuyện, mọi sự kiện, mọi điều theo cách của riêng mình, sự độc lạ của thơ anh chính là cụ thể trong khái quát và khái quát trong cụ thể rất ấn tượng. Thơ anh không ít mơ hồ mà vẫn luôn hiển hiện, không rõ thân xác mà vẫn hình hài, không đi dường vòng mà ý tứ xa xôi... Tín đã thành công với những câu thơ tự do của mình bởi sự cô đọng và khác biệt: “không có cái chết của chánh niệm/ ta từ bi ta hơn nửa đời/ bàn tay lúa nước, da vàng, diều giấy mọc vào khoảng trống tổ tiên/ không có cái thở của chánh niệm/ sau lưng ta vẫn là nghĩa địa làng/ không có tiếng kinh nào là chánh niệm/ sót tiếng vịt đồng mổ quê hương” - (Chánh niệm).

Thơ Tín có khi là tiếng thở dài, khi là lời ai điếu, rồi vẫn có thể là một lưỡi dao khoét vào nỗi đau muôn đời của con người, của thân phận làm người từ thuở hồng hoang sơ khai ấy…

chúng ta sống bằng định nghĩa/ bằng giáo lý/ bằng tôn thờ/ bằng cuồng tín/ bỏ hết những thứ con người làm ra/ kể cả suy nghĩ này/ thì cội rễ của chúng ta là gì/ những thứ được đặt tên/ là sự bất lực của giống loài/ như môi em chẳng hạn/ trong những đêm tối cổ/ da ta có kịp vàng?” - (Trên môi em tối cổ).

Rõ ràng thơ Trần Đức Tín luôn đánh thức lòng người, để gợi mở những cánh cửa tâm hồn từ nhiều góc nhìn: “nắng lưu dân làm da ta vàng/ mưa lưu lạc làm mắt ta đen/ tôi phải băng bao mùa nữa/ để về đến ngọn cỏ đầu làng/ vài người mẹ đã ngủ quên dưới đất/ tôi phải chọc thủng bao khoảng trời nữa/ để về thắp hương cho mình/ trong làn khói điểm danh tộc người di tản/ tôi xin hát/ về những giấc mơ…” - (Hình hài).

Trần Đức Tín là một nhà thơ rất trẻ, anh mới ngoài ba mươi tuổi. Thơ với anh như bùa mê, như món nợ không vay mà tự nguyện trả. Với gia tài là bốn tập thơ và nhiều giải thưởng, thơ anh đã làm được nhiều điều ngoài giá trị văn chương. Trái tim ấy đã, đang và mãi mãi vẫn đập nhịp Cửu Long Giang máu thịt, vâng, cứ ném hòn đất xuống nước sẽ nhập thành cội nguồn…

Nguồn Văn nghệ số 7/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm