TIN TỨC

Trần Kim Anh với tập thơ Khi đàn ong bay đi

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-09-22 17:00:39
mail facebook google pos stwis
1885 lượt xem

BÙI KIM ANH

Khi đàn ong bay đi (NXB Hội Nhà văn- 2011) là tập thơ thứ 3 của Trần Kim Anh, sau Giao mùaNhện đỏ. Với 45 bài thơ phong phú về đề tài, thể loại, Khi đàn ong bay đi đem đến cho người yêu thơ tâm hồn dịu dàng mà sâu lắng, đằm thắm mà suy tư của một cô giáo dạy văn và là một nhà thơ.

Đọc phần giới thiệu tác giả, ta thấy ghi quê chị Thanh Hóa, Hà Tĩnh. Hỏi ra thì Thanh Hóa là quê nội hay thường gọi là nguyên quán, Hà Tĩnh là quê ngoại nhưng là nơi chị sinh ra, lớn lên và làm cô giáo. Hình như cũng chẳng có ai ghi về quê hương như chị - đủ cả hai bên nội ngoại. Chị lại là hội viên 2 hội nhà văn ở 2 thành phố lớn – Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.

Lướt qua 1 lần trong Khi đàn ong bay đi, đã bắt gặp đầy đủ những miền đất chị sinh ra và sinh sống.

Xa quê nội từ thuở lọt lòng, chị Gửi sông Mã

Nắng Sài Gòn

                 chải heo may

Nghe nỗi quê

                  vọng lại

Câu thơ

                  mái chèo con gái

Thả sóng về

                 Sông Mã

                               ưu tư.

Trong thơ chị có một Sài Gòn đêm mỏng hơn chiều, có một Sài Gòn mùa khô Nắng lưng ong/ phứt tung khuy áo/ tự tin khoe Nam bộ.

Trong thơ chị có một Hà Nội: Với hồ Bảy Mẫu chỉ còn là dòng chảy/ mênh mông trơ những góc buồn, với Mắt lá Hồ Tây xanh sóng gọi mùa, với trời xanh nghiêng xuống cốm ru làng Vòng. Và nào là chùa Trấn Quốc, chợ Đồng Xuân, chợ Mơ…nào là Loa Thành với An Dương Vương…

Trần Kim Anh yêu và viết về Hà Nội trong cách nhìn riêng mình:

Hà Nội đa tình chàng trai quyến rũ

Dắt nắng vào lưng đi suốt chân trời

Chớm heo may run ngày trở rét

Hà Nội nghiêng lòng nghe tiếng lá rơi

(Hà Nội của tôi)

Nhiều nữa những vùng đất mà Trần Kim Anh đã tới, đã thân thương trong những tứ thơ của mình. Một Cúc Phương mở núi, Cúc Phương ngái ngủ. Một thoáng Nha Trang Bóng bàng vuông rủ xuống niềm xưa cũ/ biển đảo ngày đêm thao thức Khánh Hòa. Rồi vùng cao Si Ma Cai. Rồi chợ quê La Giang. Rồi bến Ninh Kiều… Trần Kim Anh đi nhiều, cảm nhận về những nơi mình đã đến khi thắc thỏm, khi chênh chao, khi ưu tư và nhiều khi trong cảm xúc cô đơn. Hãy nghe tiếng lòng của nữ sĩ trong bài thơ Gửi Đà Lạt

Mimoza vàng mơ Đà Lạt

Em một mình thương nhớ em thôi

Mưa dan díu thung lũng vàng một nửa

Chập chùng đèo hút gió một mình em

Cảnh một mình được bộc lộ nhiều nhất trong các bài thơ tình của chị. Cũng có lẽ bởi chị đang chỉ một mình. Cũng có lẽ bởi Anh là dậy thì em con gái.

Thơ về anh và em chỉ là một phần nơi cuối tập Khi đàn ong bay đi. Hình như tình anh đã là ký ức mà em Tháng ngày theo anh rong ruổi/ Khi anh đã thành xa xôi. Hình như anh và em chỉ còn là Một ngày tin nhắn lần đường tìm nhau. Có một người phụ nữ, có một cô giáo trong một người làm thơ thật hiền dịu biết chờ đợi goan ngoãn để rồi còn lại một mình

Ngày mai ấm

Ngày mai nắng

Anh đến

Vâng! Em đợi

…Nhợt nhạt những câu thơ phơi nắng

                                                   chờ anh (Hẹn)

Không trách móc khi lời hẹn, thời gian hẹn của anh cứ lùi dần, lý do lỡ tiếp nối và cả lời hứa như lời thề thốt Nhất định làm sao quên. Bài thơ Hẹn kết của tập thơ ngầm mách: Một mình, đọng lại hình ảnh Mưa dầm run trong mắt em. Không trách đâu mà sao thương vậy, mà sao giận vậy.

Tập thơ Khi đàn ong bay đi, có 3 bài thơ viết dành cho 3 người thương yêu của Trần Kim Anh. Người cha trong thoảng gió hồn quê nồng nàn (Dâng cha). Người chị gái yêu đã sớm từ giã cõi đời Một thoáng chị/ thiên thần bay qua cõi người/giọt nước không kịp xanh/ nhỏ bên ngày lạnh (Lặng lẽ chị).

Và mẹ - kính tặng mẹ yêu tuổi 92

Con thức con ngồi canh giấc mẹ

Bao đêm xưa mẹ thức ru con

Cỏ bay bạc xóa chân trời cũ

Thoi thóp lòng con nắng dưới cồn (Mẹ ơi)

Cũng là tình mẹ con như bao người, như bao bài thơ viết về đề tài mẹ mà bài Mẹ ơi của Trần Kim Anh làm ta cảm động bởi cách diễn tả của chị - con nặng lòng nghe chuối cạn ngày, bởi hiểu hoàn cảnh riêng chị - Mẹ biết con chỉ còn có mẹ/Gánh đời nặng nhẹ sẻ cùng con. Và, rồi sẽ đến một ngày, dẫu sợ hãi vẫn đến vắng lạnh hơi người thì cái một mình, cái cô đơn trong đời và trong thơ của Trần Kim Anh biết đến tận đâu

Rồi ta sống

                 tới ngày cánh trụi

Mới hay

                   lầm lũi kiếp người (Một thoáng Chí Phèo)

Cái Đường số phận như chị đặt tên cho một bài thơ của mình trăn trở trong câu viết của chị - trăn trở nhưng vẫn nhẹ nhàng mà không chua chát, như tính tình của chị. Dẫu nhân gian bơ phờ nhợt nhạt đắng cay, Trần Kim Anh vẫn lý giải - Lỗ thủng ô zôn không giữ nổi/ Đường số phận/ Tựa vì sao đổi ngôi

Con người Trần Kim Anh là vậy, thơ chị là vậy – Chẳng đủ khôn để dấu dại khờ/ Sau dịu dàng / rất cỏ.

Đọc Khi đàn ong bay đi ta gặp ở đây một Trần Kim Anh với giọng thơ truyền thống mượt mà với những điệp từ điệp ngữ - Nào đâu chút mẹ chút cha/Chút anh chút chị chút bà con thôi/ Cho tôi một chút phương trời/ …cho tôi một chút quê nhà… Và một Trần Kim Anh với những hình ảnh gợi tả, lối diễn đạt không kém phần hiện đại, táo bạo – Em đông cứng thành khối tình ái/ Em tan chảy thành dòng tình ái / …Rồi lại Rụng một kiếp người còn tươi.

Rồi xuân đến mà Gió nhú ngỡ ngàng ngực nõn/ Lá run rẩy/ Môi mùa run

rẩy

Trần Kim Anh có một bài thơ Khi đàn ong đến nhà - ở tập Nhện đỏ. Và đây là Khi đàn ong bay đi - bài thơ mở đầu tập thơ, là nhan đề tập thơ.

Rồi một ngày

Ngọt ngào vỗ cánh

                      những đời người

… Những giọt mật đã vội về cõi mọng

Mong manh ơi

                        Xin tạ tội với người

Cuộc đời là vậy đấy. Những gì ngọt ngào, những gì tốt đẹp đến rồi lại vỗ cánh bay đi. Mong manh quá! Mong manh ư? Trần Kim Anh muốn níu giữ mà thật khó. Không là cõi mộng. Với chị đó là cõi mọng – chín mọng, ngọt mọng – đầy sức sống, đầy quyến rũ nhưng đến rồi lại bay đi như đàn ong mật đến nhà rồi lại bay đi.

BKA.
 

Một vài hình ảnh về nhà thơ Trần Kim Anh và bạn bè

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm