TIN TỨC

Trong thế giới thiên nhiên của nhà thơ Ngọc Khương

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2023-09-26 23:29:25
mail facebook google pos stwis
1089 lượt xem

  Võ Thu Hương

Nhà thơ Ngọc Khương quan niệm: “Thơ phải trong sáng, giản dị, chân thật và ngôn ngữ cần đạt tới sự lung linh, huyền ảo”. Và trong dòng thơ ông viết cho thiếu nhi, là cách ông biểu đạt thành công quan niệm ấy của mình.

 Hơn 30 năm từ ngày xuất bản tập thơ đầu tiên đến nay, ở tuổi ngoài 70, nhà thơ Ngọc Khương vẫn giữ tình yêu với những trang thơ viết cho trẻ nhỏ. Những tác phẩm thiếu nhi đã in của nhà thơ Ngọc Khương: “Cây đàn và bông hồng” xuất bản năm 1995, “Bim Bim và Mướp Vàng” xuất bản năm 2001, “Cò bay giữa phố” xuất bản năm 2017, “Muôn lời thiên nhiên” xuất bản năm 2023.

Từ trái sang: Nhà văn Phương Huyền, Nhà NCPB Lê Thiếu Nhơn, nhà thơ Ngọc Khương và nhà thơ Bùi Phan Thảo trong buổi ra mắt tập thơ

“Tôi lớn lên ngụp lặn dưới chân cầu/ Tay lấm láp bắt con còng làm bạn/ Chân tứa máu bởi mảnh hàu, mảnh hến/ Da cháy rần trong nắng quái miền Trung”.

Những câu thơ mang tính tự sự dẫn tôi đến với thế giới thiên nhiên trong thơ Ngọc Khương. Ban đầu, có một chút sự đồng cảm cá nhân, với những hình ảnh “tay lấm láp bắt con còng làm bạn”, “da cháy rần trong nắng quái miền Trung” - mà những đứa trẻ miền Trung đều đi qua.

Nhưng điều giữ độc giả lại với những trang thơ Ngọc Khương không chỉ là sự đồng cảm về một vùng miền, một không gian trùng hợp, mà chính là thế giới thiên nhiên trong trẻo, dễ thương trong thơ ông. “Muôn lời thiên nhiên” là chủ đề chung của tập thơ gồm 27 tác phẩm viết về thiên nhiên của ông, vừa ra mắt nhân mùa Trung thu năm nay.

Thiên nhiên là một đề tài rộng lớn và đã có từ xa xưa đối với thiếu nhi. Trong thơ Ngọc Khương hiện ra gần gũi, kề bên cuộc sống mỗi ngày. Trong thế giới ban sơ của mỗi đứa trẻ, ngoài việc làm bạn cùng nhau, “làm bạn” với ông bà cha mẹ… còn có cả những người bạn là cỏ cây, muông thú, muôn loài. Từng là người thầy cầm phấn nhiều năm trước khi làm thơ, Ngọc Khương hiểu rõ tâm lý ấy của trẻ, và ông đã dựng lên một thế giới thiên nhiên rất gần gũi, đáng yêu để làm bạn cùng trẻ thơ.

Đó là chú sáo thân thiết với cậu bé, cả hai cùng sẻ chia, bên nhau mỗi ngày, mỗi buổi. Cuộc sống của trẻ trở nên rộn ràng, vui vẻ hơn khi có người bạn chim sáo nhỏ:

Sáng sáng Sáo gọi/ Dậy mau! Dậy mau!/ Nhanh chân đến lớp/ Trễ học rồi nào!

Chiều chiều Sáo nhắc/ Học bài! Học bài! / Mê chi điện thoại/ Bấm hoài! Bấm hoài!/

Chủ nhật Sáo giục/ Tưới cây! Tưới cây!/ Em mang vòi nước / Làm mưa phun đầy…(Cú sáo nhà em

Thiên nhiên song hành trong cuộc sống này. Đừng tưởng chỉ nhà thơ mới làm thơ, chỉ những người yêu thơ mới đến vớ Hội thơ. Trong thế giới thơ Ngọc Khương, có một hội thơ Nguyên tiêu đặc biệt, sinh động:

Chú Vàng cất tiếng gâu gâu/ Khua vang hồi trống, mở đầu hội thơ/ Gà Nâu vừa tỉnh giấc mơ / Ó ò ó - nắng buông tơ sáng – chiều

Vịt Bầu chân bước liêu xiêu/ Đọc thơ tứ tuyệt, bao nhiêu nỗi niềm!/ Mèo Con đôi mắt u huyền/ Ngâm bài lục bát, trăng nghiêng cuối chiều.

Chú Khỉ không ngớt leo trèo/ Diễn “tân hình thức” thơ treo lưng trời/ Tiếng thơ như níu lòng người / Nguyên Tiêu, vang vọng muôn lời thiên nhiên …” (Ngày hội nguyên tiêu)

Thiên nhiên trong thơ Ngọc Khương không chỉ là những loài vật gần với thế giới trẻ thơ. Ông viết về cảnh sắc quê hương đất nước – một cách giới thiệu cho trẻ những vẻ đẹp quê mình qua những vần thơ. Và cách “du lịch qua những vần thơ” dễ đi vào lòng trẻ nhỏ một cách bất ngờ:

 Tầng tầng / Đá đĩa nhấp nhô / Chênh chao võng biển / Đung đưa Tuy Hòa... (Bên tháp Nghinh Phong)

Qua Định Quán / Đá chẳng nằm / Đứng chồng ba lớp / Trăng rằm chạm môi…/ Đá như làm xiếc mà chơi / Để nhiều bạn trẻ / Bao đời ngác ngơ…/ Hay là đá cũng mộng mơ / Muốn làm thi sĩ tạc thơ lên trời? (Đá Chồng).

Và cũng có lúc, bài ca thiên nhiên quê mình dù thật nên thơ nhưng vẫn nặng trĩu nỗi niềm. Đó là khi :

Trăng non/ Từ đáy biển sâu/ Mọc lên giữa sóng bạc đầu/ Lung linh.../ Bao người lính đã hy sinh/ Đảo thiêng xé sóng/ Hóa mình thành trăng… (Trăng Trường Sa)

Hoặc trĩu nặng nỗi buồn khi ánh mắt trẻ thơ thấy vắng cánh cò, vắng mảnh hồn quê. Đây cũng là cách để tác giả nhẹ nhàng lồng vào những thông điệp bảo vệ môi trường không chỉ với con trẻ mà còn thức tỉnh trách nhiệm những người lớn:

“Bếp nhà hàng/ Rụi những cánh thơ/ Thương bao chú Cò/ Quắt queo chảo lửa!/ Đàn cò trắng/ Bây giờ còn đâu nữa!/ Đồng làng em/ Trống mảnh hồn quê”.

Viết về thiên nhiên, kết nối tình yêu thiên nhiên với con trẻ qua những vần thơ nhỏ, đó là cách mà nhà thơ Ngọc Khương đã làm và cho thấy trách nhiệm của một người viết cho thiếu nhi hiện nay.

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm