TIN TỨC

Trương Nam Hương, nhà thơ của cảm thức cội nguồn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-07-05 08:52:18
mail facebook google pos stwis
1915 lượt xem

NGÔ XUÂN HỘI

Nhà thơ Trương Nam Hương sinh năm 1963 ở Hải Phòng, quê nội Thừa Thiên – Huế, quê ngoại Bắc Ninh. Tuổi thiếu niên, lứa tuổi quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách một con người, Hương sống xa quê nội. Năm 1975 đất nước thống nhất, mười hai tuổi - khi nhân cách sắp hoàn thành, anh không về nội mà theo gia đình vào Sài Gòn, sau đó ra Biên Hòa của miền Đông Nam bộ định cư.

Cho đến nay khi đã đi qua “Sáu mươi năm cuộc đời”, thời gian anh gắn bó với quê nội lúc dài nhất cũng chỉ nửa năm. Vì thế, dù Hương có viết: “Trong tôi có chút sâu đằm/ Của Kinh Bắc với thâm trầm Cố đô” thì tôi qua tiếp xúc, thấy anh trong căn cốt, không liên quan gì với xứ sở “sơn bất cao, thủy bất thâm” của quê nội. Anh là người Bắc 100 %. Thể hiện qua chất giọng Hà Nội chuẩn, qua gu ẩm thực thích cà pháo mắm tôm ăn với canh rau đay mồng tơi, qua cách uống cà phê chậm rãi cùng bạn bè trong quán giữa Sài Gòn nồng nhiệt. Một làn gió heo may, một mùi hương hoa sữa, một quả bàng chín, một trái sấu rơi... cũng làm anh run rẩy. Bởi đó là kỷ niệm của anh, là tuổi thơ của anh trên đất Bắc.

Từ những riêng tư ấy, trở thành nhà thơ, thơ Hương không có cái dữ dội của thơ miền Trung, cái phóng túng rênh rang của thơ Nam bộ, mà thơ Hương luôn mượt mà bay bổng, đặc trưng của thơ miền Bắc. Xuất phát điểm khác nhau, cảm nhận về đối tượng được phản ánh cũng khác nhau. Đều là dân tập kết mà Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân) viết “Nhớ mưa quê hương” với những chi tiết rất cụ thể: “…Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm/ Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông/ Ta lặn xuống, nghe vang xa tiếng sấm/ Nghe mưa rơi, tiếng ấm tiếng trong”, thì nỗi nhớ quê hương trong thơ Hương lại bàng bạc, liêu trai: “Anh vịn màu rêu Huế để yêu em…”. Ấy bởi Ca Lê Hiến sinh năm 1940, tập kết ra Bắc năm 1954 khi đã 14 tuổi, đã kịp sống với quê hương. Còn Trương Nam Hương “Con từ xa Huế sinh ra”, quê hương anh được biết đến đầu tiên qua hình bóng người cha, vì thế mới “Anh vịn”, Anh mượn!” Nhưng nắng mưa cây cỏ Huế có màu gì; giống, khác thế nào với nắng mưa cây cỏ đất Bắc? Tôi không biết. Hương chắc cũng không biết. Thực tế trong đời sống có một màu không ngả qua đen, không tía qua đỏ mà chỉ đủ đậm như màu mực học trò trên giấy trắng. Và nó mang đến cho người ngắm bao nỗi niềm sâu kín cùng những tâm sự ngổn ngang, ngơ ngẩn… màu ấy được gọi là “tím Huế”. Người đầu tiên định danh “tím Huế” là ai? Công dân Huế hay công dân của một vùng đất khác? Điều đó không quan trọng, quan trọng là Huế đã khiến ông (hay bà) nghĩ vậy, và khi ông (hay bà) ấy nói ra thì ai cũng thấy là không thể khác. Từ đó, với người phụ nữ Huế và với cộng đồng, màu tím ấy là màu Huế - vừa là màu áo, vừa là sự biểu hiện của tấm lòng đức hạnh. Vì thế mới có “Thuỷ chung tình bạn chùm hoa tím/ Hôn đóa hoa thơm, tưởng Huế gần…” (Tố Hữu). Đến lượt mình, chàng Trương thi sĩ của chúng ta, người có số hưởng, đã mặc nhiên thừa nhận, lấy đó làm điểm tựa xây đắp cho mình một tình yêu và chàng yên tâm ngay khi thấy: “…Vững như núi, Huế lại đằm như nước/ Vạt áo dài mây trắng xuống thi ca…”.

Thơ Hương là vậy, không rối rắm chữ nghĩa, không tân kỳ hình thức. Từ khi đặt bút viết những câu thơ đầu tiên anh đã chọn cho mình một phong cách thơ bình dị, gần gũi và thuần hậu. Về mặt hình thức, Trương Nam Hương không xa lạ một thể loại thơ nào, nhưng chuộng nhất có tứ tuyệt, ba câu và thơ lục bát. Trong số đó, trừ thơ ba câu, còn tứ tuyệt và lục bát đều là những thể thơ mà độ phủ sóng rộng khắp toàn cõi nước Việt (đã đành), còn theo những bước chân di dân của người Việt ra thế giới, dù tứ tuyệt có nguồn gốc từ thơ Đường từ thế kỷ XII. Tứ tuyệt, ấy là một thể thơ mà khi sự hàm súc đạt đỉnh, có thể gói được cả vũ trụ vào trong. Tuân thủ nghiêm nhặt niêm luật, tứ tuyệt của Trương Nam Hương lúc thủ thỉ tỏ bày, lúc như một tiếng thở dài sau nhiều kìm nén, khiến ta thắt lòng: “Mẹ giờ hóa nén hương thơm đỏ/ Thương lặng nhìn con chẳng rụng tàn/ Khói thắt se vòng lo mẹ nặng/ Cõi về cong vít cả thân nhang” (Mẹ). Lúc giống như những tia chớp giữa cơn giông, vụt lóe trong khoảnh khắc mà soi rõ được bao la… Và đẹp, một vẻ đẹp cổ điển thường chỉ thấy trong cổ thi: “Ngày mỏng mờ hơn chuông rõ hơn/ Trúc vin nghìn bậc đá rêu mòn/ Núi khom khom vái mây dâng lễ/ Tùng thắp xanh trời vạn nén thơm!” (Lên Yên Tử).

Cùng với thơ tứ tuyệt, Hương sử dụng nhiều thơ ba câu. Tôi không thích thơ ba câu. Nó mang lại cho tôi cảm giác chơi vơi, chân không đến đất, đầu không đến trời. Thơ ba câu của Trương Nam Hương thuyết phục tôi ở sự uyển chuyển của câu chữ, ở khả năng gắn kết, độc lập đấy mà ràng rịt đấy. Ví dụ bài Lỗi hẹn sông Cầu: “…Tháng giêng hoa xoan rơi vụng dại/ Em với sông Cầu xanh ở lại/ Anh đi rét ngọt giữa tay cầm// Cỏ níu chân sông mùa thiếp ngủ/ Em tiễn cái nhìn đau cả gió/ Chiều chớp đầy anh… mắt lá răm…”. Hai khổ thơ này, đứng độc lập đã là hai bài thơ trọn vẹn. Đứng trong bài, làm nên một thể thống nhất câu chữ, để lại dư vị tiếc nuối, ngọt ngào về những ân nghĩa cuộc đời mà mình bỏ lỡ…

Nhưng phải đến lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc nhà thơ của chúng ta mới bày tỏ được hết công phu. Đụng vào lục bát, Hương như cá trong nước, chim trên trời, tung tăng sải vây, tung cánh.

Để đổi mới lục bát, cách chung của nhiều người là ngắt câu, bẻ chữ, xuống dòng. Làm gì thì cũng phải đảm bảo nhịp 6/8. Hương khác hơn, từ những chữ mòn nhẵn, anh biến tấu, thay đổi, làm mới, biến chúng thành của riêng mình: “Tiếng sông úng ớ”, “Mưa nắng tung tuây cái tôm cái tép”, “Em hây hẩy khép chiều ngấn mẩy”, “Nửa giờ thấp thểnh oai xưa”, Sóng nước ngung nguây vỗ mạn thuyền… Tìm chữ cũng giống như tìm vàng, phải dày công đãi cát. Và khi đã gặp, nó làm cho câu thơ trở nên có hồn, sáng rỡ, găm sâu vào trí nhớ người đọc, khiến người đọc day dứt mãi không thôi. Nỗ lực “bảo toàn” thơ bằng thơ! Có lẽ vì thế, hàm lượng những câu thơ hay, những câu thơ lục bát hay trong thơ Hương rất nhiều. Ví dụ: “Tết nghèo bánh lá thay cơm/ Đồng xu mừng tuổi còn thơm mùi bùn/ Con cầm thương khó run run/ Muốn khoe với cả mưa phùn mẹ ơi”; ví dụ:“Anh xa đất Bắc mười năm/ Tay em Hà Nội, xin cầm hơi lâu/ Hỏi mùa hoa sữa nơi đâu/ Câu thơ ngồi khóc, mắt nâu lại buồn…”; ví dụ: “Tạ ơn Hà Nội trọn đời/ Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo”; ví dụ: “Khi người đánh bóng tuổi tên/ Anh đi tìm hộp xi đen đánh giày”; ví dụ nữa: “Váy người ngắn đến mê ly/ Ngẫm thơ tứ tuyệt nhiều khi còn dài”

Đọc câu thơ này của Hương, tôi bỗng nhớ giai thoại về cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trả lời phỏng vấn của một nhà báo phương Tây thời chống Mỹ. Sau những trao qua đổi lại với người đứng đầu Chính phủ Bắc Việt về những vấn đề mình quan tâm, nhà báo chợt hỏi: “Ngài nghĩ gì về chiếc mini juyp?” Thủ tướng hóm hỉnh: “Tôi nghĩ, nó không thể ngắn hơn được nữa!”. Thông tuệ như Thủ tướng mà vẫn không tiên liệu hết được sự phát triển của cuộc sống, của thơ. Bởi sau khi ông mất không lâu (năm 2000), Việt Nam chuyển hướng, bước sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Và những chiếc mini juyp mà ông tưởng ngắn tối đa dạo nào, đã trở nên ngắn hơn. Cái nhớ của tôi, phê bình văn học gọi là “liên tưởng”. Thơ càng hay, càng tạo ra nhiều liên tưởng thú vị.

Bài hay trong thơ Hương cũng nhiều, nhưng nếu tìm một bài hay nhất trong tập thơ mới nhất của anh xuất bản mấy năm trước “Thời nắng xanh & những bài thơ khác”, anh viết về quê nội, viết về người cha kính yêu thì không phải Màu Huế, hay Nhỡ mùa sen, mà là bài Lời thưa: “Trong cha có một câu hò/ Trong câu hò có con đò sông Hương/ Trong sông Hương có nỗi buồn/ Trong thăm thẳm có vô thường thi ca// Con từ xa Huế sinh ra/ Nắng mưa thấm tiếng oa oa đầu đời/ Cha – dòng sông nhớ - con bơi/ Đắng cay vào giọt mồ hôi bến bờ// Nổi nênh quá tuổi dại khờ/ Con thương Huế với câu thơ lụy tình/ Chênh vênh quá nửa Ngự Bình/ Huế cho con cả cung đình rêu phong// Thăng trầm dạ nhớ thưa mong/ Thời gian mái đẩy long đong điệu hò/ Hồn cha giờ hóa con đò/ Mênh mang đầy cả giấc mơ – suối nguồn// Con cùng tên với dòng Hương/ Thơ con trắc ẩn cánh buồm, cha ơi.” Những câu thơ ngân nga ở tầng sâu, ở nơi giáp ranh hư thực, mộng mơ và huyền ảo, như những lớp màn sân khấu mở ra đưa người đọc vào hút sâu tâm trạng, tâm sự.

Thơ Hương là thơ trữ tình. Thơ trữ tình nói về mình. Hương chỉ nói về mình, về tuổi thơ theo tiếng tàu điện leng keng ra Bờ Hồ. Về tuổi học trò trắng trong như tờ giấy trắng, về con sông Hồng đỏ nặng phù sa, về bà ngoại thương khó, về người cha tuổi thơ anh thần tượng… Chỉ thế thôi, mà đọc lên thấy man mác buồn, thấy hồn vía những câu thơ thăm thẳm. Đấy cũng là vị chung của thơ Hương trong tập, trong toàn bộ thơ Hương từ trước tới nay. Không dưng mà trong một bài bình về “Khúc hát người xa xứ” tập thơ đầu tay của Trương Nam Hương cách đây hơn 30 năm (1990), Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã viết: “Trương Nam Hương – Hồn thơ đẹp như nỗi buồn”. Nỗi buồn cảm thông, nỗi buồn chia sẻ. Từ những nỗi niềm ấy, mẹ cha, quê ngoại quê nội luôn là niềm thi hứng lớn lao cho anh. Do thiên chức đặc biệt của mẹ, con cái thường đặt nặng tình cảm vào mẹ hơn cha. Các nhà thơ vì vậy, thường chỉ viết hay về mẹ. Hương khác hẳn, viết hay cả hai. Ở những bài thơ Hương viết về cha - mẹ, cảm thức cội nguồn trong anh hiện ra rõ nhất. Đã hơn một lần thơ anh nhắc đến NGUỒN: “Mênh mang đầy cả giấc mơ – suối nguồn…”, “Giờ xin ngồi khóc với nguồn…”,  “Nói ra cứ sợ làm đau đến nguồn…” Nguồn, với quê cha là sự tìm về; với quê mẹ là cảm thương, ơn nghĩa, là Hà Nội, Sông Hồng, là miền Quan họ, là cả một miền Bắc nước Việt diệu vợi phía sau. Mẹ hiện diện ở khắp nơi: Trăng thắp nến đợi sông ngày trở dạ/ Con chào đời cùng lúc với phù sa/ Con nhận nước sông Hồng làm máu đỏ/ Cát ôm con từ hơi mẹ ấp òa/ Con mượn cỏ bờ đê làm chỏm tóc/ Mắc vành nôi lên dợn sóng la đà/ Khi bập bẹ âm đầu, con gọi mẹ/ Chạm mảng trời run biếc của bèo hoa/ Mẹ nuôi ấm đời con bằng Quan họ/ Thuở trúc xinh gọi chú ớt ơi à/ Môi đã ríu mạn thuyền thưa Quán dốc/ Mắt đã dài cho ướt cả ngày xa/ Trăng ửng lớn một lần con dối mẹ/ Đánh rơi đêm vào chỗ rễ si xòa/ Sông mẹ thức trắng nửa bờ lau nhắc/ Mai con về tạ lỗi với phù sa (Nhớ sông Mẹ)

Cùng với cảm thức cội nguồn, đọc “Thời nắng xanh…” của Trương Nam Hương, ta còn cảm nhận rõ một cảm thức khác trong thơ anh hôm nay là cảm thức tiếc nuối tình yêu, tuổi trẻ. Cảm thức ấy trải đều, mang mang, hoang hoải suốt tập thơ. Và trong niềm thương nỗi nhớ về quá khứ, anh bật lên những câu thơ thật “đau”, những bài thơ xát lòng như muối xát: “Em không đến trường mùa Thu năm ấy nữa/ Em không đến trường cả mùa Thu năm sau/ Chiếc lá rụng xuống hoàng hôn xẹt lửa/ Theo mùa thu tiếc nuối chảy qua cầu…” (Xa  lắc mùa thu). Hoặc: “Năm anh mười bảy/ Sông Hồng tuổi em/ Bờ đê. Đêm ấy…/ Sóng. Trăng. Cỏ mềm…/ Anh vốc nước lên/ Chạm môi em đỏ/ Khoác vai bóng thuyền/ Buồm lơi nếp gió/ Em đổ đầy anh/ Tiếng sông úng ớ/ Mắt sao mướt xanh/ Rơi nhòe ngấn cỏ/ Ngày trăng biết nhớ/ Sông Hồng biết yêu/ Năm anh mười bảy/ Cầm con sóng liều…/ Rồi anh biền biệt/ Dạt trôi bao miền/ Ba mươi năm ấy/ Sông Hồng hóa em! (Sông 17 tuổi)…

*

Năm 1990, Trương Nam Hương trình làng tập thơ đầu tay Khúc hát người xa xứ, và lập tức nổi danh, đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, rồi được kết nạp “đặc cách” vào Hội, vượt ngoài quy định “muốn vào Hội phải xuất bản ít nhất 2 tác phẩm được dư luận tốt”. Ở thời điểm ấy, anh là hội viên trẻ tuổi nhất sở hữu giải thưởng thơ danh giá này. Hơn ba mươi năm trôi qua, đến nay Trương Nam Hương đã xuất bản hơn mười tập thơ, sở hữu nhiều giải thưởng thơ, nhiều danh hiệu thơ đặc biệt, như: “Nhà thơ được yêu thích nhất” do báo Người lao động bình chọn năm 1992, “Gương mặt văn học 20 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 1995”, “Gương mặt văn học 30 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 2005”.

Thời nắng xanh & những bài thơ khác là tập thơ mới nhất nhà thơ Trương Nam Hương trình làng. Đọc thấy mừng, thấy ông vẫn giữ được phong độ, không có bài nào xuống tay. Điều nói nghe nhẹ bổng này, nhưng chỉ những thi tài đích thực mới làm được.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 – 2023

(Nguồn: Tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam số 23 (3302), ngày 10/6/2023)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm