TIN TỨC

Trương Nam Hương, nhà thơ của cảm thức cội nguồn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-06-30 20:55:23
mail facebook google pos stwis
4323 lượt xem

NGÔ XUÂN HỘI

Nhà thơ Trương Nam Hương sinh năm 1963 ở Hải Phòng, quê nội Thừa Thiên – Huế, quê ngoại Bắc Ninh. Tuổi thiếu niên, lứa tuổi quan trọng nhất trong việc hình thành nhân cách một con người, Hương sống xa quê nội. Năm 1975 đất nước thống nhất, mười hai tuổi - khi nhân cách sắp hoàn thành, anh không về nội mà theo gia đình vào Sài Gòn, sau đó ra Biên Hòa của miền Đông Nam bộ định cư.

Cho đến nay khi đã đi qua “Sáu mươi năm cuộc đời”, thời gian anh gắn bó với quê nội lúc dài nhất cũng chỉ nửa năm. Vì thế, dù Hương có viết: “Trong tôi có chút sâu đằm/ Của Kinh Bắc với thâm trầm Cố đô” thì tôi qua tiếp xúc, thấy anh trong căn cốt, không liên quan gì với xứ sở “sơn bất cao, thủy bất thâm” của quê nội. Anh là người Bắc 100 %. Thể hiện qua chất giọng Hà Nội chuẩn, qua gu ẩm thực thích cà pháo mắm tôm ăn với canh rau đay mồng tơi, qua cách uống cà phê chậm rãi cùng bạn bè trong quán giữa Sài Gòn nồng nhiệt. Một làn gió heo may, một mùi hương hoa sữa, một quả bàng chín, một trái sấu rơi... cũng làm anh run rẩy. Bởi đó là kỷ niệm của anh, là tuổi thơ của anh trên đất Bắc.

Từ những riêng tư ấy, trở thành nhà thơ, thơ Hương không có cái dữ dội của thơ miền Trung, cái phóng túng rênh rang của thơ Nam bộ, mà thơ Hương luôn mượt mà bay bổng, đặc trưng của thơ miền Bắc. Xuất phát điểm khác nhau, cảm nhận về đối tượng được phản ánh cũng khác nhau. Đều là dân tập kết mà Ca Lê Hiến (Lê Anh Xuân) viết “Nhớ mưa quê hương” với những chi tiết rất cụ thể: “…Ôi tuổi thơ, ta dầm mưa ta tắm/ Ta lội tung tăng trên mặt nước mặt sông/ Ta lặn xuống, nghe vang xa tiếng sấm/ Nghe mưa rơi, tiếng ấm tiếng trong”, thì nỗi nhớ quê hương trong thơ Hương lại bàng bạc, liêu trai: “Anh vịn màu rêu Huế để yêu em…”. Ấy bởi Ca Lê Hiến sinh năm 1940, tập kết ra Bắc năm 1954 khi đã 14 tuổi, đã kịp sống với quê hương. Còn Trương Nam Hương “Con từ xa Huế sinh ra”, quê hương anh được biết đến đầu tiên qua hình bóng người cha, vì thế mới “Anh vịn”, Anh mượn!” Nhưng nắng mưa cây cỏ Huế có màu gì; giống, khác thế nào với nắng mưa cây cỏ đất Bắc? Tôi không biết. Hương chắc cũng không biết. Thực tế trong đời sống có một màu không ngả qua đen, không tía qua đỏ mà chỉ đủ đậm như màu mực học trò trên giấy trắng. Và nó mang đến cho người ngắm bao nỗi niềm sâu kín cùng những tâm sự ngổn ngang, ngơ ngẩn… màu ấy được gọi là “tím Huế”. Người đầu tiên định danh “tím Huế” là ai? Công dân Huế hay công dân của một vùng đất khác? Điều đó không quan trọng, quan trọng là Huế đã khiến ông (hay bà) nghĩ vậy, và khi ông (hay bà) ấy nói ra thì ai cũng thấy là không thể khác. Từ đó, với người phụ nữ Huế và với cộng đồng, màu tím ấy là màu Huế - vừa là màu áo, vừa là sự biểu hiện của tấm lòng đức hạnh. Vì thế mới có “Thuỷ chung tình bạn chùm hoa tím/ Hôn đóa hoa thơm, tưởng Huế gần…” (Tố Hữu). Đến lượt mình, chàng Trương thi sĩ của chúng ta, người có số hưởng, đã mặc nhiên thừa nhận, lấy đó làm điểm tựa xây đắp cho mình một tình yêu và chàng yên tâm ngay khi thấy: “…Vững như núi, Huế lại đằm như nước/ Vạt áo dài mây trắng xuống thi ca…”.

Thơ Hương là vậy, không rối rắm chữ nghĩa, không tân kỳ hình thức. Từ khi đặt bút viết những câu thơ đầu tiên anh đã chọn cho mình một phong cách thơ bình dị, gần gũi và thuần hậu. Về mặt hình thức, Trương Nam Hương không xa lạ một thể loại thơ nào, nhưng chuộng nhất có tứ tuyệt, ba câu và thơ lục bát. Trong số đó, trừ thơ ba câu, còn tứ tuyệt và lục bát đều là những thể thơ mà độ phủ sóng rộng khắp toàn cõi nước Việt (đã đành), còn theo những bước chân di dân của người Việt ra thế giới, dù tứ tuyệt có nguồn gốc từ thơ Đường từ thế kỷ XII. Tứ tuyệt, ấy là một thể thơ mà khi sự hàm súc đạt đỉnh, có thể gói được cả vũ trụ vào trong. Tuân thủ nghiêm nhặt niêm luật, tứ tuyệt của Trương Nam Hương lúc thủ thỉ tỏ bày, lúc như một tiếng thở dài sau nhiều kìm nén, khiến ta thắt lòng: “Mẹ giờ hóa nén hương thơm đỏ/ Thương lặng nhìn con chẳng rụng tàn/ Khói thắt se vòng lo mẹ nặng/ Cõi về cong vít cả thân nhang” (Mẹ). Lúc giống như những tia chớp giữa cơn giông, vụt lóe trong khoảnh khắc mà soi rõ được bao la… Và đẹp, một vẻ đẹp cổ điển thường chỉ thấy trong cổ thi: “Ngày mỏng mờ hơn chuông rõ hơn/ Trúc vin nghìn bậc đá rêu mòn/ Núi khom khom vái mây dâng lễ/ Tùng thắp xanh trời vạn nén thơm!” (Lên Yên Tử).

Cùng với thơ tứ tuyệt, Hương sử dụng nhiều thơ ba câu. Tôi không thích thơ ba câu. Nó mang lại cho tôi cảm giác chơi vơi, chân không đến đất, đầu không đến trời. Thơ ba câu của Trương Nam Hương thuyết phục tôi ở sự uyển chuyển của câu chữ, ở khả năng gắn kết, độc lập đấy mà ràng rịt đấy. Ví dụ bài Lỗi hẹn sông Cầu: “…Tháng giêng hoa xoan rơi vụng dại/ Em với sông Cầu xanh ở lại/ Anh đi rét ngọt giữa tay cầm// Cỏ níu chân sông mùa thiếp ngủ/ Em tiễn cái nhìn đau cả gió/ Chiều chớp đầy anh… mắt lá răm…”. Hai khổ thơ này, đứng độc lập đã là hai bài thơ trọn vẹn. Đứng trong bài, làm nên một thể thống nhất câu chữ, để lại dư vị tiếc nuối, ngọt ngào về những ân nghĩa cuộc đời mà mình bỏ lỡ…

Nhưng phải đến lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc nhà thơ của chúng ta mới bày tỏ được hết công phu. Đụng vào lục bát, Hương như cá trong nước, chim trên trời, tung tăng sải vây, tung cánh.

Để đổi mới lục bát, cách chung của nhiều người là ngắt câu, bẻ chữ, xuống dòng. Làm gì thì cũng phải đảm bảo nhịp 6/8. Hương khác hơn, từ những chữ mòn nhẵn, anh biến tấu, thay đổi, làm mới, biến chúng thành của riêng mình: “Tiếng sông úng ớ”, “Mưa nắng tung tuây cái tôm cái tép”, “Em hây hẩy khép chiều ngấn mẩy”, “Nửa giờ thấp thểnh oai xưa”, Sóng nước ngung nguây vỗ mạn thuyền… Tìm chữ cũng giống như tìm vàng, phải dày công đãi cát. Và khi đã gặp, nó làm cho câu thơ trở nên có hồn, sáng rỡ, găm sâu vào trí nhớ người đọc, khiến người đọc day dứt mãi không thôi. Nỗ lực “bảo toàn” thơ bằng thơ! Có lẽ vì thế, hàm lượng những câu thơ hay, những câu thơ lục bát hay trong thơ Hương rất nhiều. Ví dụ: “Tết nghèo bánh lá thay cơm/ Đồng xu mừng tuổi còn thơm mùi bùn/ Con cầm thương khó run run/ Muốn khoe với cả mưa phùn mẹ ơi”; ví dụ:“Anh xa đất Bắc mười năm/ Tay em Hà Nội, xin cầm hơi lâu/ Hỏi mùa hoa sữa nơi đâu/ Câu thơ ngồi khóc, mắt nâu lại buồn…”; ví dụ: “Tạ ơn Hà Nội trọn đời/ Nuôi tôi thương khó. Tôi thời trong veo”; ví dụ: “Khi người đánh bóng tuổi tên/ Anh đi tìm hộp xi đen đánh giày”; ví dụ nữa: “Váy người ngắn đến mê ly/ Ngẫm thơ tứ tuyệt nhiều khi còn dài”

Đọc câu thơ này của Hương, tôi bỗng nhớ giai thoại về cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Trả lời phỏng vấn của một nhà báo phương Tây thời chống Mỹ. Sau những trao qua đổi lại với người đứng đầu Chính phủ Bắc Việt về những vấn đề mình quan tâm, nhà báo chợt hỏi: “Ngài nghĩ gì về chiếc mini juyp?” Thủ tướng hóm hỉnh: “Tôi nghĩ, nó không thể ngắn hơn được nữa!”. Thông tuệ như Thủ tướng mà vẫn không tiên liệu hết được sự phát triển của cuộc sống, của thơ. Bởi sau khi ông mất không lâu (năm 2000), Việt Nam chuyển hướng, bước sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Và những chiếc mini juyp mà ông tưởng ngắn tối đa dạo nào, đã trở nên ngắn hơn. Cái nhớ của tôi, phê bình văn học gọi là “liên tưởng”. Thơ càng hay, càng tạo ra nhiều liên tưởng thú vị.

Bài hay trong thơ Hương cũng nhiều, nhưng nếu tìm một bài hay nhất trong tập thơ mới nhất của anh xuất bản mấy năm trước “Thời nắng xanh & những bài thơ khác”, anh viết về quê nội, viết về người cha kính yêu thì không phải Màu Huế, hay Nhỡ mùa sen, mà là bài Lời thưa: “Trong cha có một câu hò/ Trong câu hò có con đò sông Hương/ Trong sông Hương có nỗi buồn/ Trong thăm thẳm có vô thường thi ca// Con từ xa Huế sinh ra/ Nắng mưa thấm tiếng oa oa đầu đời/ Cha – dòng sông nhớ - con bơi/ Đắng cay vào giọt mồ hôi bến bờ// Nổi nênh quá tuổi dại khờ/ Con thương Huế với câu thơ lụy tình/ Chênh vênh quá nửa Ngự Bình/ Huế cho con cả cung đình rêu phong// Thăng trầm dạ nhớ thưa mong/ Thời gian mái đẩy long đong điệu hò/ Hồn cha giờ hóa con đò/ Mênh mang đầy cả giấc mơ – suối nguồn// Con cùng tên với dòng Hương/ Thơ con trắc ẩn cánh buồm, cha ơi.” Những câu thơ ngân nga ở tầng sâu, ở nơi giáp ranh hư thực, mộng mơ và huyền ảo, như những lớp màn sân khấu mở ra đưa người đọc vào hút sâu tâm trạng, tâm sự.

Thơ Hương là thơ trữ tình. Thơ trữ tình nói về mình. Hương chỉ nói về mình, về tuổi thơ theo tiếng tàu điện leng keng ra Bờ Hồ. Về tuổi học trò trắng trong như tờ giấy trắng, về con sông Hồng đỏ nặng phù sa, về bà ngoại thương khó, về người cha tuổi thơ anh thần tượng… Chỉ thế thôi, mà đọc lên thấy man mác buồn, thấy hồn vía những câu thơ thăm thẳm. Đấy cũng là vị chung của thơ Hương trong tập, trong toàn bộ thơ Hương từ trước tới nay. Không dưng mà trong một bài bình về “Khúc hát người xa xứ” tập thơ đầu tay của Trương Nam Hương cách đây hơn 30 năm (1990), Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã viết: “Trương Nam Hương – Hồn thơ đẹp như nỗi buồn”. Nỗi buồn cảm thông, nỗi buồn chia sẻ. Từ những nỗi niềm ấy, mẹ cha, quê ngoại quê nội luôn là niềm thi hứng lớn lao cho anh. Do thiên chức đặc biệt của mẹ, con cái thường đặt nặng tình cảm vào mẹ hơn cha. Các nhà thơ vì vậy, thường chỉ viết hay về mẹ. Hương khác hẳn, viết hay cả hai. Ở những bài thơ Hương viết về cha - mẹ, cảm thức cội nguồn trong anh hiện ra rõ nhất. Đã hơn một lần thơ anh nhắc đến NGUỒN: “Mênh mang đầy cả giấc mơ – suối nguồn…”, “Giờ xin ngồi khóc với nguồn…”,  “Nói ra cứ sợ làm đau đến nguồn…” Nguồn, với quê cha là sự tìm về; với quê mẹ là cảm thương, ơn nghĩa, là Hà Nội, Sông Hồng, là miền Quan họ, là cả một miền Bắc nước Việt diệu vợi phía sau. Mẹ hiện diện ở khắp nơi: Trăng thắp nến đợi sông ngày trở dạ/ Con chào đời cùng lúc với phù sa/ Con nhận nước sông Hồng làm máu đỏ/ Cát ôm con từ hơi mẹ ấp òa/ Con mượn cỏ bờ đê làm chỏm tóc/ Mắc vành nôi lên dợn sóng la đà/ Khi bập bẹ âm đầu, con gọi mẹ/ Chạm mảng trời run biếc của bèo hoa/ Mẹ nuôi ấm đời con bằng Quan họ/ Thuở trúc xinh gọi chú ớt ơi à/ Môi đã ríu mạn thuyền thưa Quán dốc/ Mắt đã dài cho ướt cả ngày xa/ Trăng ửng lớn một lần con dối mẹ/ Đánh rơi đêm vào chỗ rễ si xòa/ Sông mẹ thức trắng nửa bờ lau nhắc/ Mai con về tạ lỗi với phù sa (Nhớ sông Mẹ)

Cùng với cảm thức cội nguồn, đọc “Thời nắng xanh…” của Trương Nam Hương, ta còn cảm nhận rõ một cảm thức khác trong thơ anh hôm nay là cảm thức tiếc nuối tình yêu, tuổi trẻ. Cảm thức ấy trải đều, mang mang, hoang hoải suốt tập thơ. Và trong niềm thương nỗi nhớ về quá khứ, anh bật lên những câu thơ thật “đau”, những bài thơ xát lòng như muối xát: “Em không đến trường mùa Thu năm ấy nữa/ Em không đến trường cả mùa Thu năm sau/ Chiếc lá rụng xuống hoàng hôn xẹt lửa/ Theo mùa thu tiếc nuối chảy qua cầu…” (Xa  lắc mùa thu). Hoặc: “Năm anh mười bảy/ Sông Hồng tuổi em/ Bờ đê. Đêm ấy…/ Sóng. Trăng. Cỏ mềm…/ Anh vốc nước lên/ Chạm môi em đỏ/ Khoác vai bóng thuyền/ Buồm lơi nếp gió/ Em đổ đầy anh/ Tiếng sông úng ớ/ Mắt sao mướt xanh/ Rơi nhòe ngấn cỏ/ Ngày trăng biết nhớ/ Sông Hồng biết yêu/ Năm anh mười bảy/ Cầm con sóng liều…/ Rồi anh biền biệt/ Dạt trôi bao miền/ Ba mươi năm ấy/ Sông Hồng hóa em! (Sông 17 tuổi)…

*

Năm 1990, Trương Nam Hương trình làng tập thơ đầu tay Khúc hát người xa xứ, và lập tức nổi danh, đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, rồi được kết nạp “đặc cách” vào Hội, vượt ngoài quy định “muốn vào Hội phải xuất bản ít nhất 2 tác phẩm được dư luận tốt”. Ở thời điểm ấy, anh là hội viên trẻ tuổi nhất sở hữu giải thưởng thơ danh giá này. Hơn ba mươi năm trôi qua, đến nay Trương Nam Hương đã xuất bản hơn mười tập thơ, sở hữu nhiều giải thưởng thơ, nhiều danh hiệu thơ đặc biệt, như: “Nhà thơ được yêu thích nhất” do báo Người lao động bình chọn năm 1992, “Gương mặt văn học 20 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 1995”, “Gương mặt văn học 30 năm thành phố Hồ Chí Minh 1975 - 2005”.

Thời nắng xanh & những bài thơ khác là tập thơ mới nhất nhà thơ Trương Nam Hương trình làng. Đọc thấy mừng, thấy ông vẫn giữ được phong độ, không có bài nào xuống tay. Điều nói nghe nhẹ bổng này, nhưng chỉ những thi tài đích thực mới làm được.

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 6 – 2023

(Nguồn: Tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam số 23 (3302), ngày 10/6/2023)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm