TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • 90 năm trước, Hà Nội nơi đầu tiên ra mắt lối thơ mới với bài ‘Tình già’

90 năm trước, Hà Nội nơi đầu tiên ra mắt lối thơ mới với bài ‘Tình già’

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1253 lượt xem

Trong dư luận công chúng Việt Nam, việc nền thơ mới tiếng Việt hiện đại là kết quả vận động phát triển của phong trào thơ mới, 1932-1945, – là điều đã được thừa nhận.

Trong giới sáng tác và phê bình nghiên cứu Việt Nam, nói khác đi là trong làng văn người Việt, sự kiện được coi là đánh dấu điểm khởi phát phong trào thơ mới, – chính là việc tác gia Phan Khôi công bố bài báo Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ, trong đó nêu quy tắc duy nhất của “lối thơ mới” là chỉ yêu cầu sự hiện diện của vần, ngoài ra không có bất cứ quy tắc nào về số từ trong mỗi câu thơ, số câu thơ trong mỗi bài thơ; và bài thơ Tình già của chính tác giả được đưa ra trong bài báo như ví dụ cho lối thơ mới.

Bài báo phát động thơ mới đó được đăng sớm nhất trên Tập văn mùa xuân Đông tây, một đặc san Tết của tuần báo Đông tây, khi ấy được coi là tờ báo của tuổi trẻ đất Bắc.

Theo mô tả của Thư viện quốc gia Việt Nam (31 Tràng Thi, Hà Nội) thì ấn phẩm này in tại nhà in Tân Dân, dày 24 trang, khổ 32 cm. Các bài chính trong ấn phẩm là của Văn Tôi (tức Hoàng Tích Chu), Ngym (bút danh của một họa sĩ), Nhị Lang, Phan Khôi, Trúc Đỳnh, Vi Huyền Đắc, Vũ Bằng, Thượng Minh, Tương Huyền, Ngẫu Trì, Đặng Trọng Duyệt, Đại Thanh, thơ của Nam Hương, Đạm Quang. Bài Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ của Phan Khôi in ở hai trang 6 và 7; ngoài ra có lẽ ông còn có một bài nữa, ký tắt là K., viết về nỗ lực của nhà cầm quyền và ngành hàng không Pháp nhằm mở đường bay từ Marseille đến Hà Nội.

Đặc san Tập văn mùa xuân Đông tây được xuất bản vào ngày nào? Tiếc là trên bản in không có ngày tháng xác định. Bìa 1 in hai màu, có mấy dòng chữ Pháp viết tay trên bản nộp lưu chiểu của chủ nhiệm Hoàng Tích Chu chỉ ghi số bản in (Tirage: 2000 exemplaires) và ký tên. Ở chân trang bìa 1 có mấy chữ in: “Tập văn mùa xuân này xuất bản đầu năm Nhâm Thìn”; sắp chữ “năm Nhâm Thìn” rõ ràng là sai (tuy in sai nhưng không dám bỏ bìa in màu chăng?) nên ngay chân trang bìa 2 có khung nhỏ in lời cải chính: “Tập văn mùa xuân này xuất bản đầu năm Nhâm Thân 1932 chứ không phải đầu năm Nhâm Thìn như đã in lầm ở bìa vậy. Nay cải chính”!

Người ta biết, ngày mồng 1 tết Nhâm Thân là ngày 6/2/1932 (dương lịch); các loại báo tết, giai phẩm xuân thường phải được phát hành trước Tết chừng một tháng, ít ra cũng vài tuần. Vậy Tập văn mùa xuân của báo Đông tây chắc hẳn được phát hành trước tết một tuần; tạm coi như được phát hành từ 1/2/1932, nếu không phải là còn sớm hơn nữa.

Chính vì được đăng tải trước tết, nên ngay sau tuần nghỉ tết, trên báo chí Hà Nội đã thấy có phản xạ của dư luận đối với việc Phan Khôi phát động thơ mới. Tác giả Thượng Minh có bài Đôi lời về lối thơ mới của Phan Khôi (Đông tây, 17/2/1932). Và Phan Khôi cũng kịp gửi bài đáp lại: “Về lối thơ mới sau bài Tình già: Vừa mở ra đã có người lo cột lại” (Đông tây, 12/3/1932).

Ở phía Nam, bài báo Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ của Phan Khôi đăng tuần báo Phụ nữ tân văn số 122 (10/3/1932), muộn hơn một tháng so với thời điểm phát hành Tập văn mùa xuân của báo Đông tây ngoài Bắc. Ngoài ra, bản đăng Phụ nữ tân văn bài này lại bị kiểm duyệt cắt bỏ một vài đoạn, so với bản đăng Tập văn mùa xuân Đông tây.

Cho đến năm 1935, trên tờ Tân thiếu niên (s.3, ngày 16/2/1935) ở Hà Nội, hai tác giả Nguyễn Xuân Huy và T.K. còn ghi nhận: “Năm 1932, trong Tập văn mùa xuân của báo Đông tây, ông Phan Khôi có đem ‘trình chánh’ trong làng thơ một lối thơ phỏng theo lối ‘thơ tự do’ của văn học Pháp, không hạn chữ không hạn câu, mệnh danh là ‘thơ mới’. Ông Phan đưa ra một bài làm mẫu, bài ‘Tình già’…”.

Diện mạo vụ việc ở báo chí đương thời là như thế, và sẽ không có gì đáng để căn lại thật chính xác về thời gian nếu nó không đi vào văn học sử!

Bởi vì, khi nhà phê bình Hoài Thanh, hồi 1940-1941, sống ở Huế, đang làm một tuyển tập để vinh danh phong trào thơ mới (tuyển này sẽ được hai soạn giả Hoài Thanh, Hoài Chân đặt tên là Thi nhân Việt Nam 1932-1941), Hoài Thanh lại chỉ biết bài báo kể trên của Phan Khôi đăng Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn, chứ không biết đến bản đăng Tập văn mùa xuân Đông tây! Ông coi phong trào thơ mới là “một cuộc cách mệnh về thi ca”, và coi bài báo Phan Khôi đem trình trước làng thơ Việt “một lối thơ mới” với ví dụ là bài Tình già như là điểm khởi đầu “nhóm lên” cuộc “cách mệnh thi ca” kia!

Một ý tưởng vinh danh rất đáng đồng tình. Có điều, khi tính thời gian xuất hiện bài báo, Hoài Thanh lại ghi ngày 10 Mars 1932, tức là thời gian xuất bản Phụ nữ tân văn số 122; trong khi lẽ ra phải tính từ thời điểm phát hành đặc san Tập văn mùa xuân Đông tây, tức là từ đầu tháng 2/1932.

Điều đáng tiếc là, các sách có tính cách văn học sử về sau, ví dụ Nhà văn hiện đại (1941-1943) của Vũ Ngọc Phan, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965) của Phạm Thế Ngũ, Phê bình văn học thế hệ 1932 (1972) của Thanh Lãng, v.v… khi mô tả sự thành hình nền thơ mới tiếng Việt, đều lặp lại sự mô tả của Hoài Thanh, lấy bài báo đề xướng “một lối thơ mới” với ví dụ là bài thơ Tình già của Phan Khôi đăng Phụ nữ tân văn xuất bản tại Sài Gòn ngày 10 Mars 1932 làm dấu mốc!

Càng đáng tiếc hơn nữa là, tuy đặc san Tập văn mùa xuân Đông tây đã được tìm thấy từ 2006 (tôi và nhóm sinh viên của giảng viên Phạm Xuân Thạch/ khoa Văn học, ĐHXH-NVQG Hà Nội/ cùng tìm thấy tại ô phich Thư viện quốc gia, 31 Tràng Thi, Hà Nội; tôi đã mượn và chụp ảnh toàn bộ đặc san này), đã có những bài báo đính chính sự việc. Song dường như dư luận phê bình nghiên cứu trong ngoài nước vẫn chưa tiếp nhận thông tin này, vẫn sử dụng thời điểm ngày 10/3/1932 cho bài báo Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ trong đó có bài thơ Tình già!

Thiết nghĩ, sự xuất hiện bài báo kể trên của Phan Khôi đã trở thành một sự kiện văn học sử; bởi vậy, các giới nhà văn, nhà báo, nhà phê bình và công chúng văn học nên được thông tin thật rõ về điểm khởi đầu thật sự của phong trào thơ mới, gắn với việc xuất hiện bài báo Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ của Phan Khôi.

Đã gần tròn thế kỷ tính từ khi xuất hiện cái phong trào đã làm thay đổi căn bản diện mạo nền thi ca tiếng Việt hiện đại, điểm khởi đầu của sự kiện càng cần được đánh dấu chính xác, bởi đây là một dấu mốc văn học sử!

Tháng Mười Hai năm 2021

______

Phụ Lục

Một lối “thơ mới” trình chánh giữa làng thơ

Mới đây, tôi có được gặp ông Phạm Quỳnh ở Sài Gòn. Trong khi nói chuyện, ông nhắc đến mấy bài Trúc chi từ của tôi đã làm trên sông Hương khi gặp người bạn cũ là ông Nguyễn Bá Trác ở ngoại quốc mới về; ông Phạm tỏ ý khen mấy bài đó và nói chính mình đã dịch nó ra tiếng Pháp. Sau hết, ông khuyên tôi nên giữ cái thái độ ngâm thơ như hồi đó thì hơn.

Lời khuyên của ông Phạm đó, dầu là lời nói dỡn đi nữa, với tôi, tôi cũng phải nhìn là có ý nghĩa. Nhưng sau khi nghe lời ấy, tôi chỉ có thể gật đầu mà làm thinh, không dám vội vàng tỏ ra mình đã vui lòng lãnh giáo. Vì con người ta mà muốn thay đổi cách sinh hoạt về tinh thần, lại còn khó hơn chánh phủ thay đổi cái chế độ giáo dục hay chế độ nấu rượu nữa, không phải việc chơi đâu mà hấp tấp.

Duy có vì nghe lời ông đó mà tôi nhớ sực lại sự làm thơ. Thật, cái động cơ viết bài này là chính ở mấy lời của ông.

Ông Phạm bảo tôi nên lấy lại cái thái độ ngâm thơ hồi trước, trong đó tỏ ra rằng bấy lâu tôi đã bỏ mất hay là đã đổi cái thái độ ấy đi, nghĩa là bấy lâu nay tôi không ngâm thơ. Mà quả thế, gần mười năm nay tôi không có bài thơ nào hết, thơ bằng chữ gì cũng không có.

Trước kia tôi dầu không có tên tuổi trong làng thơ như ông Nguyễn Khắc Hiếu, ông Trần Tuấn Khải, song ít ra trong một năm, tôi cũng có được dăm bảy bài, hoặc bằng chữ Hán, hoặc bằng Nôm. Mà dăm bảy bài của tôi, không phải nói phách, đều là năm bảy bài nghe được. Vậy mà gần mười năm nay mót lắm chỉ được một vài bài mà thôi, kể cũng như là không có.

Xin thú thật với mấy ông thợ thơ. Không có, không phải tại tôi không muốn làm hay không thèm làm, nhưng tại tôi làm không được!

Vậy thì hiện nay, đừng nói tôi không chịu nhận lời khuyên của ông Phạm, dầu cho tôi nhận đi nữa, mà tôi không còn làm thơ được, thì ông mới xử trí cho tôi làm sao? Đó, chính cái vấn đề ở đó rồi.

Lâu nay, mỗi khi có hứng, tôi toan giở ra ngâm vịnh, thì cái hồn thơ của tôi như nó lúng túng, chẳng khác nào cái thân của tôi là lúng túng. Thơ chữ Hán ư? Thì ông Lý, ông Đỗ, ông Bạch, ông Tô choán trong đầu tôi rồi. Thơ Nôm ư? Thì cụ Tiên Điền, bà huyện Thanh Quan đè ngang ngực tôi, làm cho tôi thở không ra. Cái ý nào mình muốn nói, lại nói ra được nữa, thì đọc đi đọc lại, nghe như họ đã nói rồi. Cái ý nào họ chưa nói, mình muốn nói ra, thì lại bị những niêm, những vận, những luật bó buộc mà nói không được. Té ra mình cứ loanh quanh lẩn quẩn trong lòng bàn tay của họ hoài, thật là dễ tức!

Duy tân đi! Cải lương đi! À, có rồi chứ có phải không đâu. Thí dụ như bài thơ:

Dân quạ đình công

…………………….. (1)

Bài ấy của tôi đã đăng trong Đông Pháp thời báo năm 1928, được nhiều người hoan nghênh, kể cũng đáng cho là một ngôi sao chổi giữa trời thơ! Cho đến ngày nay tôi đọc lại vẫn còn nhìn là được, nhưng thích thì tôi không thích.

Đại phàm thơ là để tả cảnh, tự tình, mà hoặc tình hoặc cảnh cũng phải quý cho chơn. Lối thơ cũ của ta, ngũ ngôn hay thất ngôn, tuyệt cú hay luật thể thì nó bị câu thúc quá. Mà dầu có phóng ra theo lối thất cổ, như bài Dân quạ đình công đây, cũng vẫn còn bị câu thúc. Hễ bị câu thúc thì nó mất cái chơn đi, không mất hết cũng mất già nửa phần.

Tôi nhìn thấy trong thơ ta có một điều đáng bỉ, là bài nào cũng như bài nấy. Cứ rủ nhau khen hay thì nó là hay, chớ nếu lột tận xương ra mà xem, thì chẳng biết cái hay ở đâu. Như bài Dân quạ đình công đó, chỉ nhờ có đem việc đình công là một việc mới ra mà tả, việc ấy lại hiệp với … người đời nay thành thử người ta ưa, chớ coi kỹ thì nó cũ quá, thiệt tình chẳng phải hay gì.

Bởi vậy tôi rắp toan bày ra một lối thơ mới. Vì nó chưa thành thực nên chưa có thể đặt tên kêu là lối gì được, song có thể cử cái đại ý của lối thơ mới này ra, là: Đem ý thật có trong tâm khảm mình tả ra bằng những câu có vận, mà không phải bó buộc bởi những niêm luật gì hết. Ấy là như:

Tình già

Hai mươi bốn năm xưa, một đêm vừa gió lại vừa mưa,

 Dưới ngọn đèn mờ, trong gian nhà nhỏ, hai cái đầu xanh kề nhau than thở:

− “Ôi đôi ta, tình thương nhau thì vẫn nặng, mà lấy nhau hẳn đà không đặng;

Để đến nỗi tình trước phụ sau, chi cho bằng sớm liệu mà buông nhau!”

− “Hay! Nói mới bạc làm sao chớ! Buông nhau làm sao cho nỡ?

Thương được chừng nào hay chừng nấy, chẳng qua ông Trời bắt đôi ta phải vậy!

Ta là nhân ngãi, đâu có phải vợ chồng mà tính việc thuỷ chung?”

Hai mươi bốn năm sau, tình cờ đất khách gặp nhau;

Đôi cái đầu đều bạc. Nếu chẳng quen lung, đố có nhìn ra được!

Ôn chuyện cũ mà thôi. Liếc đưa nhau đi rồi! con mắt còn có đuôi!

Đó là bài thơ tôi làm trước đây vài tháng, mà tôi kêu là một lối thơ mới đó. Chẳng phải là tôi hiếu sự, nhưng vì tôi hết chỗ ở trong vòng lãnh địa của thơ cũ, tôi phải đi kiếm đất mới; mà miếng đất tôi kiếm được đó chẳng biết có ở được không, nên mới đem ra mà trình chánh giữa làng thơ.

Chẳng phải tôi là người thứ nhứt làm ra việc nầy. Hơn mười năm trước ở Hà Nội cũng đã có một vị thanh niên làm việc ấy mà bị thất bại.

Tôi dại gì lại đi theo cái dấu xe đã úp? Nhưng tôi tin rằng cái lối thơ của ta đã hết chỗ hay rồi, dường như một nơi đế đô mà cái vượng khí đã tiêu trầm rồi, ta phải kiếm nơi khác mà đóng đô. Tôi cầm chắc việc đề xướng của tôi đây sẽ thất bại lần nữa; nhưng tôi tin rằng sau này có người sẽ làm như tôi mà thành công.

Phan Khôi

Nguồn: Tập văn mùa xuân. Báo Đông tây xuất bản, Hà Nội, Tết Nhâm Thân 1932, tr. 6-7.

(1) Bài báo để chấm lửng chứ không in kèm bài thơ. Dưới đây là toàn văn bài thơ Dân quạ đình công của C.D. (Chương Dân tức Phan Khôi) đăng Phụ trương văn chương của Đông Pháp thời báo số 726 (2/6/1928):

Mồng bảy tháng Bảy năm Canh Thân,

Chiếu lệ bắc cầu sang sông Ngân.

Hằng hà sa số cu li quạ,

Bay bổng về trời dường trảy quân.

Hai bên bờ sông đậu lóc ngóc,

Con thì kêu đói, con kêu nhọc.

Đường sá xa xuôi việc nặng nề,

Phần lũ con thơ ở nhà khóc.

Bỗng nghe lệnh Trời truyền khởi công,

Nào con đầu cúi, con lưng cong,

Thêm thầy huyện Bẻo đứng coi việc,

Đụng đâu đánh đó như bao bông.

Ngán cho cái kiếp làm dân thiệt!

Làm có, ăn không, chết chó chết!

Cắn cỏ kêu Trời, Trời chẳng nghe,

Một con bay lên đứng diễn thuyết:

“Hỡi đồng bào, nghe tôi nói đây!

Dân quyền thạnh nhứt là đời nay,

Việc mà chẳng phải việc công ích,

Không ai có phép đem dân đày.

Trối kệ Hoàng Ngưu với Chức Nữ,

Qua được thì qua, không thì chớ;

Quốc dân Ô Thước tội tình gì,

Mà bắt xâu bơi làm khổ sở?

Anh em ta hè, về quách thôi! “

Luôn thể kéo nhau vào cửa trời,

Động trống đăng văn ầm đế tọa,

Ngai vàng bệ ngọc rung rinh, rơi.

Có tin dân quạ nổi cách mệnh:

Trời sai thiên lôi ra thám thính,

Đầu đen máu đỏ quyết hi sinh.

Ngừng búa, thiên lôi không dám đánh.

Tức thì chiếu Trời vạch mây ra,

Đánh chữ đại xá Trời ban tha;

Dân quạ ở đâu về ở đó.

Từ nay khỏi bắc cầu Ngân Hà.

Ờ té ra:

Mềm thì ai cũng nuốt,

Cứng thì Trời cũng nhả!

Hằng hà sa số cu li quạ,

Bay về hạ giới kêu “khá khá”.

(2) Bản đăng bài báo này trên Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn (s.122, ngày 10/3/1932) bị kiểm duyệt bỏ mất trên 100 từ, cụ thể là bỏ hết những đoạn nào từ nào nhắc tới bài Dân quạ đình công, ‒ bài thơ gợi nhớ tới phong trào kháng thuế xin xâu ở Trung Kỳ năm Mậu Thân 1908.

 Lại Nguyên Ân/Văn nghệ

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm