TIN TỨC

Giấc mộng Kinh đô và khát vọng người viết

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-10-09 16:53:51
mail facebook google pos stwis
499 lượt xem

NGUYÊN HÙNG

Trong một chuyến trở lại Phượng Hoàng Trung Đô, nơi tôi vẫn hình dung về giấc mộng kinh kỳ dang dở của Hoàng đế Quang Trung, bao nhiêu suy tư về lịch sử, về tầm vóc của tiền nhân bỗng ùa về. Với chút trải nghiệm và những dòng tùy bút này, tôi muốn chia sẻ cùng bạn đọc một hành trình không chỉ ngược dòng thời gian để cảm nhận khí phách của bậc minh quân, mà còn là một cuộc tìm về sâu thẳm tâm hồn người cầm bút.

***

Vào một ngày nắng tháng Tư, tôi cùng các nhà văn thuộc Hội Nhà văn Việt Nam dự Trại Sáng tác văn học tại Nam Đàn, đã đi thăm viếng Đền thờ Hoàng đế Quang Trung tại Thành phố Vinh. Con đường dẫn vào vùng đất Trung Đô hôm ấy như dài thêm bởi những tầng sương sớm, bảng lảng giữa rừng thông cao vút trên núi Dũng Quyết – một vùng đầt nằm phía hữu ngạn sông Lam. Khi leo lên đến Phượng Hoàng Trung Đô, nơi vua Quang Trung từng định xây kinh đô, nơi ông mời La Sơn Phu Tử ra bàn việc nước, chúng tôi như thấy khí phách của bậc quân vương hội tụ cùng khí tiết của bậc đại nho. Hai tâm thế lớn – kẻ cầm quân và người cầm bút – cùng tìm một con đường cho dân tộc. Đứng giữa khung cảnh nước non hùng vĩ và nên thơ này, tôi thầm nghĩ: người viết hôm nay cũng phải tìm một Phượng Hoàng Trung Đô trong lòng mình – một nền tảng vững chắc để dựng nên những tác phẩm đủ chiều sâu, đủ tầm vóc, để có thể đi vào lòng người.
 

Đền thơ vua Quang Trung trên núi Quyết nhìn từ trên cao (Ảnh: Báo Nghệ An)

Chúng tôi dừng lại hồi lâu trước Đền thờ Hoàng đế Quang Trung – người từng làm nên kỳ tích đánh tan 29 vạn quân Thanh trong vòng 6 ngày Tết, người từng 3 lần ra Bắc vào Nam để dựng cờ, thống nhất giang sơn. Nhưng giữa những chiến công hiển hách ấy, có một giấc mộng lớn mà ông chưa kịp hoàn thành: xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô – một kinh đô mới của đất nước Đại Việt.

Một tầm nhìn vượt trước thời đại

Người ta thường nhắc đến Quang Trung như một người anh hùng áo vải, một thiên tài quân sự với chiến công "thần tốc" đánh tan quân xâm lược, nhưng ít ai nhấn mạnh rằng ông còn là một kiến trúc sư chính trị với tầm nhìn vượt trước thời đại. Không chọn Thăng Long hay Phú Xuân, ông quyết định xây dựng Trung Đô Phượng Hoàng tại Nghệ An – vùng đất chiến lược nằm giữa hai miền Nam - Bắc, sát dòng Lam Giang, thuận tiện giao thông, "dễ thủ dễ công". Đây không chỉ là kinh đô mới, mà còn là trung tâm quyền lực được tính toán kỹ lưỡng, cách đều Phú Xuân và Thăng Long khoảng 300km, thể hiện tư duy cân bằng quyền lực và phòng thủ đa chiều.

Quang Trung sớm nhìn thấy nguy cơ ngoại xâm từ phương Bắc. Sau khi kết hôn với công chúa Ngọc Hân, ông đã lường trước việc nhà Lê sẽ cầu viện Trung Hoa, nên bí mật chuẩn bị lương thảo ở Phú Thọ, đồng thời phân tán binh lính về Nghệ An dưới vỏ bọc nông dân. Nhờ thế, khi quân Thanh xâm lược, ông có thể hành quân thần tốc từ Huế ra Bắc – một kế hoạch khiến Tôn Sĩ Nghị không kịp trở tay. Chiến thắng Ngọc Hồi - Đống Đa năm 1789 không chỉ là kỳ tích quân sự, mà còn minh chứng cho tầm nhìn chiến lược: ông xây dựng Trung Đô Phượng Hoàng không chỉ để trị quốc, mà còn để phòng thủ lâu dài, thậm chí có thể ngăn chặn cả thực dân Pháp sau này.

Trên nền tảng đó, Quang Trung vẽ ra một giấc mộng kiến quốc táo bạo:

Quy hoạch đô thị hiện đại: Phượng Hoàng Trung Đô được thiết kế theo mô hình "trung tâm đồng tâm" với cung điện, doanh trại, kho lương, trường học và khu dân cư bài bản – một tư duy quy hoạch tiến bộ hiếm có thời bấy giờ.
Cải cách giáo dục: Thành lập Viện Sùng Chính như "học viện quốc gia" đào tạo nhân tài, đề cao chữ Nôm, mở rộng giáo dục đến tầng lớp nông dân.
Tái định hình quốc gia: Đổi tên nước thành Nam Việt, giảm sưu thuế, trọng dụng nhân tài không phân biệt xuất thân...

Nhưng lịch sử thường khắc nghiệt với những giấc mộng lớn. Cái chết đột ngột của Quang Trung năm 1792 khiến Trung Đô Phượng Hoàng dang dở, để lại những câu hỏi đau đáu cho hậu thế: Nếu ông còn tại vị lâu hơn, liệu nước Việt đã kịp có một kinh đô trung tâm, một nền giáo dục Nôm hóa, và một thế hệ lãnh đạo đủ sức chống ngoại xâm trong thế kỷ XIX?

Có lẽ, lịch sử đã phần nào trả lời khi giao sứ mệnh đánh Pháp, đuổi Nhật, và định hình nền độc lập hiện đại cho những người con Xứ Nghệ – nơi Quang Trung từng chọn làm trái tim của đất nước. Giấc mộng của ông tuy chưa thành, nhưng tầm nhìn ấy mãi là di sản cho hậu thế suy ngẫm.

Một trang sử lật dở

Năm 1792, khi công trình Trung Đô còn đang dang dở, Quang Trung băng hà ở tuổi 40. Cái chết bất ngờ ấy không chỉ khép lại một đời người, mà như cắt phăng một con đường lịch sử đang mở ra. Những bức tường thành mới đắp bị bỏ hoang. Những cột mốc xây dựng rêu phong dần phủ kín. Phượng Hoàng chưa kịp tung cánh đã thành biểu tượng của một giấc mộng gãy cánh.

Giả sử nhà vua tại vị thêm mười năm – chỉ mười năm thôi – lịch sử nước Việt có thể đã rẽ sang một hướng khác: không còn cảnh đất nước chia ba, không còn những cuộc nội chiến dai dẳng, không còn những lần ngoại bang dòm ngó dễ dàng vì lòng dân chưa yên. Một Việt Nam hiện đại hóa từ thế kỷ 18, biết đâu đã không còn là mơ tưởng.

Về điều này, Võ Văn Dũng - một võ tướng kiệt xuất đồng thời là nhà ngoại giao tài ba thời Tây Sơn, người đặt nền móng cho quan hệ bình đẳng giữa Đại Việt và nhà Thanh, đã có mấy câu thơ nổi tiếng:

"Năm năm dấy nghiệp tự thân nông

Thời trước thời sau khó sánh cùng

Trời để vua ta thêm chục tuổi

Anh hùng Đường, Tống hết khoe hùng"

Lịch sử không có chữ "nếu". Nhưng người viết văn, đôi khi được phép sống với những "nếu" ấy – không phải để mơ mộng viển vông, mà để từ đó hiểu thêm giá trị của những điều đã mất, và trân trọng những cơ hội mình đang có.

Ngẫm từ một giấc mộng chưa tròn

Phượng Hoàng Trung Đô hôm nay, với những dấu tích xưa cũ, không còn là công trình dang dở mà đã là một biểu tượng trong lòng lịch sử. Biểu tượng của tầm nhìn, của khát vọng đổi thay, của nỗ lực vượt lên khỏi giới hạn thời đại.

Chúng tôi – những người cầm bút bé nhỏ – đứng đây, không chỉ là để tưởng niệm, mà còn để soi vào mình. Phượng Hoàng không cất cánh, nhưng hy vọng lắm, những đôi cánh chữ nghĩa sẽ cất cánh bay lên – bằng khát vọng của mình và sự phù trợ của các bậc tiền nhân.

Viết, có khi là sự tiếp nối một giấc mộng chưa thành. Mỗi con chữ, là một viên gạch xây lại niềm tin. Mỗi tác phẩm, là một cách thắp sáng một góc lịch sử từng bị khuất lấp.

Phượng Hoàng Trung Đô không thành kinh đô. Nhưng trong tâm thức những người viết, nơi ấy mãi là kinh đô của khát vọng – nơi một bậc minh quân từng dám mơ khác biệt, từng dám đi xa hơn cả thời đại của mình.
 


Các nhà văn tham gia Trại sáng tác Nam Đàn của Hội Nhà văn Việt Nam trong thăm viếng và dâng hương Đền thờ Hoàng đế Quang Trung tại Phượng Hoàng Trung, TP Vinh, Nghệ An.

Bài đăng Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số đặc biệt, 9/10/2025
.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sương rơi trên lá non - Tản văn Hồng Loan
Có những đoạn đời, ta đi qua như kẻ mộng du giữa những vết xước của chính mình. Mỗi ngày trôi, ta tưởng mình vẫn sống, nhưng kỳ thực chỉ là đang lặp lại những hơi thở cũ, nhạt nhòa và vô nghĩa. Tổn thương không chỉ làm ta đau, nó khiến ta lãng quên, quên mất rằng mình từng có một tâm hồn trong trẻo, từng biết rung động trước điều nhỏ bé nhất trong đời.
Xem thêm
Người gieo hạt yêu thương – Tản văn Chu Thị Phương Thảo
Nhắc đến quãng đời học trò, tôi không thể quên hình ảnh cô giáo Trương Hoàng Oanh – người đã dìu dắt tôi suốt những năm cấp hai. Với tôi, cô không chỉ là một người thầy, mà còn là người mẹ thứ hai, người để lại trong lòng tôi những ký ức không thể phai mờ. Cho đến hôm nay, mỗi khi nhắm mắt lại, tôi vẫn thấy rõ ánh mắt hiền từ của cô, vẫn nghe giọng nói trầm ấm khi cô gọi tôi bằng cái tên thân thương: “Nhím” – cái tên gắn bó với tôi như một phần ký ức ngọt ngào của tuổi học trò.
Xem thêm
Những người con đất Quảng - Bút ký Phùng Chí Cường
Ngày 20 tháng 7 năm 1954 hiệp định Giơnevơ được ký kết, chấm dứt gần 100 năm người Pháp đặt ách đô hộ lên đất nước ta. Nhưng ngay sau khi chữ ký chưa ráo mực, thì đế quốc Mỹ đã nhảy vào miền Nam hất cẳng Pháp, đưa con bài Ngô Đình Diệm về Sài Gòn để lập ra chính quyền bù nhìn thân Mỹ, chúng rắp tâm chia cắt lâu dài đất nước ta. Năm đó, nhiều cán bộ miền Nam đã ra Bắc tập kết, để lại quê nhà, gia đình vợ con và những người thân, rồi họ cùng nhau mòn mỏi trông chờ ngày đoàn tụ. Tới ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc mới được sum họp một nhà. Vậy trong hơn 20 năm xa cách ấy những người ở lại miền Nam, dưới sự đàn áp điên cuồng của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai, họ đã phải sống ra sao? Chúng ta hãy đi tìm câu trả lời:
Xem thêm
Từ dòng Lam đến Vàm Cỏ Đông
Một đêm diễn đặc biệt tại Nhà Văn hóa Thanh niên, với tên gọi “Giai điệu từ những vần thơ”, trong chuỗi chương trình “Những ngày Văn học Nghệ thuật TP.HCM”...
Xem thêm
Nha Trang – Viên ngọc xanh, từ hoài niệm đến khát vọng – Bút ký Nguyễn Phú Thành
Thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hoà được mệnh danh là “Viên Ngọc Xanh” của bờ biển Đông, không chỉ là điểm đến lý tưởng cho những ai yêu thích biển đảo mà còn là nơi lưu giữ những hoài niệm và khát vọng của xứ sở. Đồng thời, Nha Trang cũng hội tụ vẻ đẹp của lịch sử văn hóa và, du lịch biển làm nên vẻ đẹp hiếm có làm say đắm lòng người.
Xem thêm
Ở nơi tận cùng con nước – Bút ký Hồng Sương
Nắng tắt bên sông Long Xuyên, vỡ thành từng mảnh nhỏ trong làn hơi nước mỏng tang. Thành phố vào giờ tan tầm, người xe chen nhau, nhưng trong nhịp hối hả ấy, có điều gì thật đỗi dịu dàng, thân quen. Tôi ngồi bên bờ hồ, tay cầm ly nước, ngắm nhìn đám lục bình trôi trên mặt nước xiết. Xa xa, những chiếc ghe đánh cá lặng lẽ như những kiếp người trôi giữa dòng đời, bền bỉ đi tìm cái sống trong mênh mang nước bạc.
Xem thêm
“Từ Bến Nhà Rồng đến Ba Đình” – Phần 2
Đây không chỉ là cuộc hành trình theo dòng lịch sử, mà còn là cuộc trở về trong tâm tưởng – nơi mỗi bước chân đều in dấu biết ơn, tự hào và khát vọng được góp phần làm đẹp thêm dáng hình Tổ quốc.
Xem thêm
Không còn bao lâu nữa!
Tùy bút của Trần Đôn
Xem thêm
Tuổi thơ, mùa bão lụt và quê hương thương khó
Câu chuyện của hai nhà giáo Phạm Phú Phong (Khoa Ngữ văn, Trường ĐH Khoa học - ĐH Huế) và Huỳnh Như Phương (Khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP. HCM)
Xem thêm
Với nhà văn Đoàn Thạch Biền
Làm một cuộc khảo sát bỏ túi với các anh chị và các bạn thế hệ 6X, 7X, 8X, 9X rằng người nào ảnh hưởng trong việc viết văn làm báo của mình nhất, đều nhận được câu trả lời: Nhà văn Đoàn Thạch Biền!
Xem thêm
Đoản khúc thời gian - Tản văn Hoàng Xuân
Trời tháng 10 bầm dập những đoản khúc, lúc mưa, lúc nắng, lúc lại dỗi hờn vừa mưa vừa nắng. Lòng tôi lại chông chênh nhớ về quá khứ. Quá khứ của những cơn gió lạnh đầu đông, của tiết trời giao mùa vương vấn, phảng phất xem lẫn một miền ký ức. Bao giờ tiết trời giao mùa cũng thế, làm cho con người có nhiều nỗi nhớ nhung, và cũng có nhiều cảm xúc dâng trào.
Xem thêm
Trên chuyến xe cuối ngày - Tản văn của Võ Văn Bảo Quốc
Ngày cuối tuần của một chiều cuối thu. Trong làn không khí se se lạnh của khoảng giao mùa, tôi trở về căn trọ nhỏ sau một ngày học đầy uể oải. Nhìn quanh căn phòng chỉ có mỗi mình, thoáng chốc trong lòng dâng lên chút cô đơn, lặng lẽ xen lẫn cảm giác tủi thân nơi đất khách quê người.
Xem thêm
Đồng bào vẫn đang kêu cứu!
Ghi chép của nhà văn Hội An
Xem thêm
Nhớ mãi tác giả “Nhánh lan rừng”
Bài của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Hương sắc mùa thu trên đèo Khau Phạ – Bút ký Phan Anh
Ngược quốc lộ 32, giữa nắng thu vàng óng ả, chúng tôi đến với xứ sở vùng cao Mù Cang Chải của núi ngàn Tây Bắc, theo tiếng bản địa của người H’Mông Mù Cang Chải có nghĩa là vùng đất gỗ khô. Nơi ấy có những đỉnh núi mờ sương cùng với vực sâu thăm thẳm. Những núi đá cao ngất quanh năm được mây sương bao phủ ấy cũng từng được nhiều người ví von tựa như nơi “đất trời gặp gỡ” và nổi tiếng với con đèo Khau Phạ, một con đèo cũng từng được liệt vào hàng trứ danh ở Việt Nam, nằm trong nhóm “tứ đại đỉnh đèo” (bốn con đèo hùng vĩ nhất, cao nhất, dài nhất, nguy hiểm nhất: đèo Mã Pí Lèng - tỉnh Tuyên Quang, đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ - tỉnh Lào Cai và đèo Pha Đin - nằm giữa hai tỉnh Sơn La và Điện Biên).
Xem thêm
Tuổi bốn mươi, một mùa lặng lẽ nở hoa – Tản văn Hồng Loan
Bốn mươi. Một chiều thu nào đó, trong làn nắng nhàn nhạt xuyên qua tán lá, chợt nghe ai đó gọi mình là “cô”, như một lời đánh thức dịu dàng. Mình khựng lại, không phải vì buồn, chỉ là một khoảnh khắc nhận ra: tuổi trẻ đã khẽ khàng rời đi, như cơn gió cuối hạ, nhẹ tênh nhưng đủ để làm lòng người thổn thức.
Xem thêm
Hương cốm xưa của mẹ – Tạp bút Võ Văn Trường
Mỗi lần có dịp ra Hà Nội trong tôi lại dâng lên những cảm xúc khó tả. Điều ấy cũng không mấy khó hiểu bởi tôi vốn là đứa trẻ sinh ra từ đất Bắc, mẹ là cô gái Hà thành đem lòng yêu mến và đến với ba tôi một cán bộ miền Nam tập kết. Hà Nội thật đẹp và quyến rũ, nhất là vào thu. Ngồi cà phê bên Hồ Hoàn Kiếm rồi lòng vòng những con phố cổ, tôi chợt nhận ra cứ đến tiết thu Hà Nội đâu chỉ có “hoa sưa thơm ven mặt hồ…” như lời hát trong “mối tình đầu” của nhạc sỹ Thế Duy mà Hà Nội còn là “vương quốc” mộng mơ của những gánh hàng hoa và Hà Nội của mùi hương cốm mới.
Xem thêm
Trở lại xứ sở Chùa Vàng
Ba thập kỷ sau, tôi trở lại Thái Lan không chỉ với tư cách du khách, mà còn là người kết nối văn hóa giữa hai dân tộc Việt – Thái, vốn có nhiều “mẫu số chung” về phong tục, tập quán và tôn giáo.
Xem thêm