TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai

Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-10-02 16:40:25
mail facebook google pos stwis
1475 lượt xem

“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai. Bài viết của Lê Bá Duy dẫn dắt người đọc vào thế giới nữ tính và nhạc tính dịu dàng trong tập thơ "Ừ nhỉ, mình chờ".

LÊ BÁ DUY
(Đọc “Ừ nhỉ, mình chờ” của Võ Thị Như Mai)

Trong thơ ca Việt Nam đương đại, giọng thơ nữ luôn mang đến một sắc màu đặc biệt: vừa mềm mại, thẳm sâu, vừa tha thiết yêu thương vừa chan chứa những chiêm nghiệm nhân sinh. Từ Xuân Quỳnh, Ý Nhi, Phan Thị Thanh Nhàn, Lâm Thị Mỹ Dạ… đến các gương mặt hôm nay, thơ nữ không chỉ là tiếng lòng tình cảm mà còn là sự khẳng định cái tôi trữ tình giàu bản lĩnh. Trong dòng chảy ấy, Võ Thị Như Mai hiện lên với một tiếng thơ riêng biệt: đằm thắm, nữ tính, giàu nhạc tính và cảm xúc.

Tập thơ "Ừ nhỉ, mình chờ" là minh chứng rõ rệt cho phong cách đó. Ngay từ nhan đề, “Ừ nhỉ mình chờ” đã là một lời thốt mộc mạc, thân mật, như một cách tự nhắc nhở, một tiếng nói thầm thì, một nụ cười duyên nhẹ. Cái giản dị trong lời nói lại chứa đựng cả một thế giới nội tâm dạt dào: chờ đợi, yêu thương, nhớ nhung, khát vọng và niềm tin.

Trong bài viết này, tôi chỉ tìm hiểu tập thơ trên hai bình diện: nội dung (thế giới tình cảm, cảm hứng chủ đạo) và nghệ thuật (ngôn ngữ, hình ảnh, nhạc tính, giọng điệu), đồng thời đặt trong so sánh với dòng thơ nữ đương đại để khẳng định cá tính sáng tạo của Võ Thị Như Mai.

Có thể nói, tình yêu là mạch cảm hứng xuyên suốt tập thơ. Đó là những cung bậc rất đa dạng: từ đắm say nồng nàn đến nhớ nhung da diết, từ hờn ghen giận dỗi đến khát vọng bền lâu. Trong bài “Ừ nhỉ, mình chờ”, giọng điệu đầy nữ tính cất lên:

“Nhớ anh nhiều bao nhiêu  

Như thế nào là nhiều

Đoá trà my thơm ngát 

Rụng vào đêm tinh khôi…”

Lời thơ như một câu hỏi tu từ: thế nào là nhiều, làm sao đo được nỗi nhớ? Tình yêu trở thành một dòng chảy vô tận, không thể cân đo, chỉ có thể cảm nhận qua hình ảnh hoa trà my rụng trong đêm. Tình yêu trong tập thơ vừa nồng nàn, vừa khắc khoải, nhiều khi trở thành một triết lý sống. Bài “Ừ nhỉ, mình chờ!” là một minh chứng rõ ràng, khi nhân vật trữ tình đặt mình vào thế chờ đợi, không phải trong tuyệt vọng mà trong một niềm tin an nhiên. Hình ảnh “giày nhỏ”, “trà my thơm ngát”, “nhành mai thắm”... được vận dụng như những biểu tượng tình yêu vừa gần gũi vừa giàu sức gợi. Bài “Chỉ một người” cũng nhấn mạnh sự thủy chung và duy nhất của tình yêu. Câu thơ “Chỉ một người duy nhất một người thôi / Nâng thế giới trên tay để xoay ngọn cỏ” không chỉ là lời tỏ tình mà còn là tuyên ngôn về sự vĩnh hằng của tình cảm.

Trong “Bắt đền”, giọng thơ lại tinh nghịch, hờn dỗi nhưng vẫn nồng nàn: “Em bắt đền anh, đền anh mỗi Tết / Một nhánh mai xinh vàng phố nồng nàn”. Đây là sự hóm hỉnh của người phụ nữ trong tình yêu, nhưng đồng thời cũng là lời khẳng định: tình yêu luôn gắn với trách nhiệm và hồi ức.

Trong “Biết mấy cho vừa”, tình yêu lại hiện lên đầy tha thiết, khát khao:

“Ta yêu em ru sóng khẽ 

Vẫy ướt một giấc chiêm bao 

Có người con trai thì thào 

Nói gì mà chiều đỏ mặt…” 

Tôi thích cách diễn đạt “vẫy ướt một giấc chiêm bao” bởi lẽ đặt trong khổ thơ này,  cộng với nhịp thơ mềm mại và giai điệu dìu dặt như một khúc hát thì hình ảnh “ru sóng khẽ” gợi sự dịu dàng, êm ái; “giấc chiêm bao” lại gợi cõi mộng mơ. Ở đây, tình yêu là một không gian huyền ảo, nơi cái thực và cái mơ hòa làm một.

 Có khi tình yêu trong thơ Như Mai mang sắc thái hờn ghen. Chẳng hạn trong bài “Khi người ta yêu”, nhà thơ bộc bạch:

“Nhưng chẳng hiểu vì sao em ngăn anh từng giây

Tung tẩy lang thang với người con gái khác…”

Sự hờn ghen ấy rất đời thường, rất nữ tính, nhưng không hề cay nghiệt. Nó chỉ làm nổi bật thêm độ chân thật của cảm xúc. Hoặc trong “Chỉ một người”, tình yêu lại là sự khẳng định thủy chung:

“Chỉ một người duy nhất một người thôi

Nâng thế giới trên tay để xoay ngọn cỏ 

Cho em trải lòng mình vào gió

Ước vọng, khát khao

Người ấy luôn mỉm cười…”

Tình yêu trở thành sức mạnh nâng đỡ cả thế giới, là nguồn sống và là điểm tựa tinh thần. Như vậy, trong mạch thơ tình yêu, Võ Thị Như Mai thể hiện một nội tâm phong phú: vừa dịu dàng vừa mãnh liệt, vừa hồn nhiên vừa sâu lắng.

Nếu tình yêu đôi lứa là cánh sóng dạt dào thì tình mẫu tử và quê hương là bến bờ vững chãi trong thơ Võ Thị Như Mai. Trong bài “Chỉ có thể là mẹ”, nhà thơ viết:

“Khi chông chênh 

Con tìm về dáng mẹ 

Quê hương gói tròn bóng nhỏ liêu xiêu.”

Mẹ và quê hương hòa quyện, trở thành biểu tượng thiêng liêng. Dáng mẹ liêu xiêu chính là hình ảnh quê hương gầy gò mà bất khuất. Mỗi khi con người chông chênh, mất niềm tin, mẹ là điểm tựa trở về. Như vậy, hình ảnh mẹ hiện lên vừa bình dị vừa thiêng liêng: “Quê hương nâu cánh diều / Xanh giàn trầu của nội / Mẹ gánh lúa về vàng cả sân phơi”. Quả thật tình mẫu tử đã hòa quyện cùng hình ảnh quê nhà, làm nền cho toàn bộ cảm hứng cho thơ Như Mai.

 Ở bài thơ “Quê hương”, người đọc bắt gặp ký ức tuổi thơ và hình bóng cha mẹ hòa vào nhau:

“Mang bóng hình mẹ bãi mía nương dâu

Tiếng đạn bom dội vào trí nhớ 

Câu kinh của ba bỏ dở

Tiếng chuông Linh Sơn nguyện cầu…”

Một mạch nguồn cảm hứng xuyên suốt là quê hương và gia đình. Nếu bài thơ “Quê hương” là khúc ca chan chứa ân tình, nơi người con xa xứ nhớ về mẹ, nhớ Ô Lâu, nhớ tiếng chuông chùa Linh Sơn… thì những câu thơ “Con thì thầm hai tiếng quê hương / Nghe thân thương vì quê hương là mẹ” không chỉ là cảm xúc cá nhân mà còn nâng lên thành tình yêu Tổ quốc.

Tứ thơ về mẹ luôn là chốn hồi hương tinh thần. Đọc “Chỉ có thể là mẹ”, người con tìm thấy ánh sáng bản thể: “Chỉ bên mẹ mới thấy đời quang đãng/ Mới thấy mình như chiếc kẹo ngọt ngào.”. Hình ảnh giản dị “kẹo” lại mở ra cảm thức ấu thơ, nơi mỗi lần trở về là tẩy uế bụi đường đời: “Con chạm vào mặt trời mẹ để thở/ Ánh sáng dịu dàng trong như mặt trăng.”. Từ mẹ, tình quê tràn ra không gian địa lý, văn hóa. Trong “Hà Nội”, kẻ ở xa vẫn thấy Bắc - Trung - Nam nối liền bởi sợi nhớ: “Sài Gòn, Huế, Hà Nội tìm nhau/…/ Người đi xa, quê hương thành rộng mở / Đến nơi nào cũng rưng rức mùa ngâu…”. “Rưng rức mùa ngâu” là mưa nội tâm của người xa xứ; mưa ấy làm độ ẩm ký ức thấm sâu chữ nghĩa….

Quê hương không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn, mà còn là chứng nhân của những biến cố lịch sử, của tình mẹ cha, của nỗi đau và sự kiêu hãnh. Những bài thơ này cho thấy Như Mai không chỉ là một người phụ nữ của tình yêu đôi lứa, mà còn là người con, người mẹ, người gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước.

Đọc “Ừ nhỉ, mình chờ” ta còn thấy suy tưởng nhân sinh và thời gian trong thơ Như Mai hiện lên rõ nét. Không ít bài thơ của Như Mai mang tính chiêm nghiệm. Trong “Qua một kiếp long đong”, chị tự vấn:

“Tôi tự hỏi tình yêu là gì nhỉ 

Đến với đời nhiều phiên bản không tên

Tay nắm chặt tay cùng đánh thức mặt trời 

Hay nhớ nhung qua từng trang viết

Cứa vào tim từng mùa tiễn biệt…”

Câu hỏi “tình yêu là gì nhỉ” như một điệp khúc của đời sống. Thơ Võ Thị Như Mai ở đây không còn là những lời tỏ tình trực tiếp, mà là sự chiêm nghiệm sâu xa về bản chất tình yêu, về niềm vui và tổn thương mà nó mang lại.

Trong “Mùa phai”, ta còn bắt gặp nỗi buồn lắng đọng trước sự trôi đi của tuổi trẻ:

“Này con đường quen, đừng quá chông chênh 

Cuộc hành trình xa lâu dần cũng mỏi

Đoá cúc dại bên vệ đường lỡ hái

Cắm vào lọ chiều, ngồi ngắm mùa phai.”

Đoá cúc dại, lọ chiều, mùa phai là những hình ảnh giản dị nhưng gợi biết bao ý vị. Đó là sự nhận thức về sự trôi chảy của thời gian, về cái mong manh của kiếp người. Trong “Tái sinh”, giọng thơ Như Mai lại bừng sáng hy vọng:

“Đi qua nửa cuộc đời 

Thấy mình là dòng thác 

Đổ vào hành tinh xanh…”

Sự tái sinh ở đây không phải phép màu, mà là sức mạnh tinh thần: vượt qua đau thương, trở lại với niềm tin sống.

Thơ Như Mai gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Thiên nhiên không chỉ là bối cảnh, mà còn là nhân chứng, là bạn đồng hành. Trong bài “Sài Gòn vào xuân” nhà thơ viết:

“Sài Gòn ngỡ ngàng lá rụng 

Màu sắc ánh sáng xoay tròn

Hàng cây nghiêng mình chúc tụng 

Một chồi non vừa điểm son.” 

Thiên nhiên Sài Gòn hiện lên tươi mới, rộn ràng, khác với sự lãng mạn của “Đà Lạt sắc hương”:

“Một ngày mùa đông Đà Lạt em về

Nơi anh từng hò hẹn

Con dốc uốn mềm hàng cây hờn dỗi

Về những dấu chân xưa.”

Ở đây, thiên nhiên hiển hiện trong ký ức, đó còn là kỷ niệm của tình yêu. Trong “Thiên nhiên”, người đọc còn thấy thiên nhiên trở thành biểu tượng cho sự xoa dịu:

“Thiên nhiên hiền hoà xoa dịu vết thương

Nụ hôn cuối đông trắng đêm ngọt lừ

Cây cổ thụ không khí rừng tinh tế…”

Qua những bài thơ trên, ta có thể thấy thiên nhiên và đô thị không tách rời cảm xúc, mà trở thành tấm gương phản chiếu tình yêu, nỗi nhớ, sự chiêm nghiệm sâu sắc. Và không chỉ có tình yêu và quê hương mà thơ Võ Thị Như Mai còn đậm chất triết lý nhân sinh. Trong bài “Qua một kiếp long đong”, người đọc nhận thấy nỗi buồn và sự lận đận được nâng lên thành triết lý sống: “Ừ nhỉ, mình chờ/ Qua một kiếp long đong!”, và kết tinh giọng điệu trữ tình, triết lý của Như Mai: tình yêu được nhận thức chứ không chỉ cảm xúc. Từ “đóa trà my rơi xuống bậc thềm” (vẻ đẹp mong manh) đến câu hỏi “Tôi tự hỏi tình yêu là gì nhỉ”, nhà thơ đặt tình yêu giữa đa phiên bản của đời sống: “Tôi tự hỏi tình yêu là gì nhỉ / Đến với đời nhiều phiên bản không tên …”. Cao trào là chấp nhận tổn thương như phần của yêu: “Tôi đang yêu và được yêu… Làm sao tránh tổn thương dẫu tóc pha sợi bạc.” Và kết bằng tuyên ngôn an trú: “Ừ nhỉ, mình chờ / Qua một kiếp long đong!”. Nhịp hạ lưu của câu này làm lắng lại toàn tập: chờ không buông xuôi; chờ là định tâm sau nhận thức. Hoặc ở bài “Thứ tha” nhà thơ lại gửi gắm một thông điệp: tha thứ cho lỗi lầm chính là cách giữ gìn sự sống và tình yêu. Hoặc các bài thơ như “Như nhiên” hay “Khoảnh khắc” cũng mang đậm chất chiêm nghiệm: chấp nhận cuộc đời trong tính tự nhiên, không cưỡng cầu…

  

Đọc thơ Mai ta còn thấy nghệ thuật biểu hiện ý thơ ăn sâu trong máu hồn của nhà thơ, như dòng chảy tự nhiên vốn có. Ngôn ngữ giản dị, giàu khẩu ngữ và nữ tính.  Võ Thị Như Mai thường dùng những từ ngữ giản dị, đời thường: “ừ nhỉ”, “bắt đền”, “kể cũng lạ”, “nhiều khi”… Những cách nói ấy, làm cho thơ Như Mai gần gũi, thân mật, như một cuộc trò chuyện. Đồng thời, chính sự giản dị này chứa đựng sức gợi lớn lao, bởi nó phản ánh sự chân thành của cảm xúc.

 Mặc khác, hình ảnh trong thơ Võ Thị Như Mai giàu biểu tượng, nữ tính. Thơ Như Mai có nhiều hình ảnh gắn với thiên nhiên như: hoa trà my, cúc dại, trăng, mưa, sương, biển, sóng… Chúng không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn biểu hiện tâm trạng. Ví dụ: “Cỏ trên đồi mắc cỡ, nở thành đoá hạnh tâm.” (Cảm hoá lòng nhau) Ở đây, bông hoa mắc cỡ trở thành biểu tượng cho sự rụt rè, e ấp của tình yêu.

Thơ Như Mai giàu nhạc tính, dễ hát dễ nhớ. Vì vậy thơ Mai được khá nhiều nhạc sĩ đồng cảm, phổ nhạc (hơn 37 bài thơ phổ nhạc như: Phía bên kia hoàng hôn, Sài Gòn vào xuân, Anh tĩnh lặng gieo vần đắm đuối em, Qua một kiếp long đong, Kể cũng lạ, Nhiều khi, Ừ nhỉ! Mình chờ, Lau dòng nước mắt….). Nhịp thơ của Như Mai mềm mại, uyển chuyển, dễ ngân vang. Bài “Biết mấy cho vừa” là ví dụ tiêu biểu: vần bằng trắc xen kẽ, nhịp 2/2, 3/3 nhẹ nhàng, du dương. Ngoài ra, giọng điệu trong thơ chị cũng khá đa dạng: khi hóm hỉnh, châm biếm trong “Chuyện người ta”; khi dịu dàng, nữ tính trong “Anh hiền”; lúc triết lý, chiêm nghiệm trong “Thơ là gì ngàn lần em không biết”; rồi lắng đọng với nỗi da diết, buồn thương trong “Nhớ người”… Chính sự đa dạng ấy tạo nên sức hấp dẫn bạn đọc do vậy thơ Như Mai không đơn điệu, mà là một bản nhạc nhiều cung bậc. Phong cách thơ của Võ Thị Như Mai có thể nói: trữ tình mà triết lý, nữ tính mà lắng sâu, gắn bó với ký ức và quê hương, nhưng cũng cởi mở với hiện đại và xa xứ. Giọng thơ vừa dịu dàng vừa bản lĩnh, vừa gợi cảm xúc vừa khơi gợi suy tưởng cho người đọc…

Nếu Xuân Quỳnh là tiếng thơ của một tình yêu bùng cháy, dồn dập; Ý Nhi là giọng điệu chiêm nghiệm, tỉnh táo; Phan Thị Thanh Nhàn là sự dịu dàng, nữ tính; thì Võ Thị Như Mai có sự kết hợp: nữ tính đằm thắm với nhạc tính dạt dào và ngôn ngữ giản dị đời thường. Nhà thơ không tìm đến những biểu tượng lớn lao, không dùng quá nhiều ẩn dụ triết lý cầu kỳ, mà lấy cái nhỏ bé, đời thường để khắc họa cảm xúc. Đó chính là nét riêng, là sức mạnh của thơ Võ Thị Như Mai…

“Ừ nhỉ mình chờ” là một tập thơ giàu nữ tính và nhạc tính. Nó không chỉ là những lời tình yêu đôi lứa, mà còn là bản giao hưởng của tình mẫu tử, tình quê hương, của sự chiêm nghiệm nhân sinh. Ngôn ngữ giản dị, hình ảnh gần gũi, giọng điệu đa dạng và nhạc tính dạt dào đã làm nên sức hấp dẫn của thơ Võ Thị Như Mai. Đọc “Ừ nhỉ mình chờ”, ta bắt gặp một thế giới nội tâm phong phú của người phụ nữ hiện đại: yêu thương, mong manh, kiên cường và chan chứa tin yêu. Đó là tiếng thơ mãi sẽ còn đồng vọng, không chỉ trong lòng người đọc hôm nay, mà cả mai sau.

Tình Giang, tháng 9. 2025

L.B.D

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm