TIN TỨC

Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-10-09 20:32:10
mail facebook google pos stwis
395 lượt xem

TRẦN HÓA

"Góc chiều" là tập thơ thứ ba của nhà thơ gốc lính Phan Nhật Tiến, sau "Hoa ở chốt" và "Mỏm đá đợi trăng". Có một điều dễ nhận thấy: thơ Phan Nhật Tiến đặc sắc, ý nghĩa và xúc động nhất chính ở mảng đề tài chiến tranh, người lính. Ở đó, hồn thơ anh là hồi ức của một người trong cuộc - người trực tiếp cầm súng tham gia cuộc trường chinh vệ quốc vĩ đại.

Dù "Góc chiều" cũng có những thi phẩm tình hay, trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin được cùng anh trở lại với mạch nguồn cảm hứng chủ đạo: thơ về chiến tranh và người lính.

Phan Nhật Tiến thuộc thế hệ những người lính nay đã ngoài bảy mươi. Chúng tôi, những người may mắn sống sót trở về, trong khi bao đồng đội đã nằm lại mãi nơi chiến trường, ở cái tuổi đôi mươi, và có người đến hơn năm chục năm vẫn chưa tìm được hài cốt.

"Góc chiều" với 56 bài thơ, tôi đọc một mạch. Có bài đọc nhanh, có bài phải dừng lại thật lâu để thổn thức. Và tôi nhận ra: phần lớn những cựu chiến binh như chúng tôi, nếu có cầm bút, thì điều ám ảnh, day dứt và cho ta nhiều cảm xúc nhất để viết, vẫn là cái thời "một thời đạn bom, một thời hào hùng" ấy. Hơn thế, chúng tôi thường chia sẻ một nhân sinh quan tích cực về giá trị đích thực của cuộc sống, giữa vòng xoáy của cơm áo gạo tiền và lối sống thực dụng đang hiện hữu.

Và trong "Góc chiều", có một bài thơ đã nói được rất nhiều điều, đó chính là “Có điều gì lấn cấn phải không em?”.

Chúng ta hãy lắng nghe những lời thơ giản dị mà thấm thía:

...Sao bữa nay em cắc cớ hỏi anh
Mình yêu nhau ngày nào, nụ hôn đầu ngày mấy
Có điều gì lấn cấn phải không em?

Nhà thơ - một người chồng, người lính cũ - thật tinh tế khi thấu hiểu câu hỏi tưởng là bâng quơ nhưng chất chứa bao ý tứ của vợ. Và từ đó, dòng hồi ức về thời cầm súng ùa về, không thể kìm nén:

“Cái khát chiến trường K sao mà nhức nhối
Rừng khộp trơ xương tróc vỏ đến mấy lần
Thương bạn bè ngã xuống vướng mìn râu
Đứa gập người bởi kẻ thù bắn lén
Xót xa lắm khi không còn giọt nước
Cho đồng đội bớt đau hơi thở sau cùng”

Những câu thơ như được viết ra từ máu thịt, từ ký ức không thể nào quên. Nó là hiện thân của sự khốc liệt, của nỗi đau mất mát và tình đồng đội thiêng liêng. Sự chân thật đến nghẹn lòng ấy khiến người đọc không khỏi quặn thắt.

Từ quá khứ đau thương nhưng hào hùng ấy, nhà thơ tìm thấy sự bình tâm và lẽ sống cho hiện tại:

Sao quên được những tháng năm gian khổ
Để hôm nay có cuộc sống thanh bình
Vậy có gì phải lấn cấn đâu em
Cứ cá rau như bấy nay là ổn
Tối ngủ ôm nhau chỉ yêu không còn đủ
Nhưng cái thương vẫn tròn một vòng tay

Thông điệp của bài thơ trở nên rõ ràng và sâu sắc. Sự bình yên hôm nay được đánh đổi bằng xương máu của cả một dân tộc. Những hy sinh, mất mát ấy là vô giá. Vậy thì, những khó khăn vật chất tạm thời, sự đơn sơ "cá rau" của cuộc sống thường nhật có đáng gì để phải bận lòng? Phan Nhật Tiến đã khéo léo mượn câu chuyện riêng để gửi gắm một thông điệp chung, nhân văn: hãy biết trân trọng hòa bình và giữ vững những giá trị giản dị, tình nghĩa.

Hai câu thơ: “Vậy có gì phải lấn cấn đâu em/ Cứ rau cá như bấy nay là ổn” nghe mộc mạc, chân chất mà thấm đẫm triết lý sống, thể hiện một bản lĩnh cứng cỏi, một tầm vóc của một cây bút.

Có thể khẳng định, những người lính như Phan Nhật Tiến, sau khi đi qua chiến tranh, thường mang trong mình một sức mạnh tinh thần lớn lao để đối diện với cuộc sống. Thơ anh, vì thế, dù viết về ký ức đau thương vẫn luôn toát lên vẻ đẹp của sự tích cực, mạnh mẽ và đầy tính nhân văn - đúng chất "lính Cụ Hồ".

"Góc chiều" là một tập thơ như thế. Và bài thơ “Có điều gì lấn cấn phải không em?” xứng đáng là một thi phẩm tiêu biểu.

Cảm ơn nhà thơ Phan Nhật Tiến, anh đã nói hộ bao tâm tư của thế hệ những người lính chúng tôi bằng những vần thơ chân thật, nghĩa tình và giàu cảm xúc.

Chúc anh thật nhiều sức khỏe và luôn dồi dào thi hứng.

TP.HCM, 11/10/2025
TH.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm